I. KHÁI NIỆM THƠ
1.1. Ở Trung Quốc
thời trung đại
Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên
của loài người. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể
hiện hết đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật
không dễ.
Trong nền lý luận
văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm "thơ là gì?" đã được đề cập đến
từ rất sớm. Cách đây khoảng 1500 năm, trong cuốn Văn tâm điêu long, Lưu
Hiệp đã đề cập đến ba phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là tình cảm,
ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn).
Kế thừa quan niệm
của Lưu Hiệp, đến đời Đường, Bạch Cư Dị đã nêu lên các yếu tố then chốt tạo
thành điều kiện tồn tại của thơ: "Cái
cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước
được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa.
Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý
nghĩa". Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu
thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ,
mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống
động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý
luận văn học cổ điển Trung Hoa.
1.2. Ở Việt Nam thời hiện đại
Khái niệm "thơ
là gì?" cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với nhiều quan niệm,
nhiều khuynh hướng khác nhau.
-
Khái quát: Trước hết, cần khẳng định thơ là hình thức sáng tác văn học
phản ảnh đời sống, là thể loại văn học ra đời đầu tiên, có phạm vi phổ biến
rộng và sâu.
- Về
hình thức nghệ thuật: Nhìn từ bên ngoài, thơ là hình thức cấu tạo ngôn
từ đặc biệt. Việc sắp xếp các câu (dòng) thơ như những đơn vị nhịp điệu làm nên
một hình thức có tính tạo hình, thành một cấu trúc đặc biệt. Mỗi câu thơ đều là
một cách sắp xếp có dụng ý qua cách dùng từ, hình ảnh, số chữ, nhịp điệu, hiệp
vần, phối thanh, các biện pháp tu từ…
- Về
nội dung, ý nghĩa: Về bản chất bên trong của thơ thì thơ là một thể
loại trữ tình, là tiếng nói tâm hồn của con người. Thơ là tiếng nói của cảm
xúc, là người thư kí trung thành của trái tim, là tiếng nói thầm của nội tâm
sâu kín "Thơ là tiếng nói đầu tiên, là tiếng nói thứ nhất của tâm hồn con
người khi đụng chạm với cuộc sống" (Nguyễn Đình Thi).
- Về giá trị, chức
năng, tư tưởng:
+ Thơ ca bao giờ
cũng là tấm gương phản ánh cuộc sống và đặc biệt thể hiện đời sống tâm hồn con
người.
+ Thơ là trạng thái
tình cảm, cảm xúc cao độ, tràn đầy đòi hỏi phải được thể hiện qua hình thức nghệ
thuật. Con đường để thơ đến với người đọc là "từ trái tim đến trái
tim". Người nghệ sĩ từ chỗ rung động trước cái đẹp sẽ lan truyền những
rung động đó tới người đọc.
+ Cảm xúc mạnh mẽ
của nhà thơ có thể tạo nên những câu thơ có tầm tư tưởng tác động đến nhận thức
của người đọc nên "Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh". Ở phương
diện này, các thi sĩ huy động các thao tác của tư duy như phân tích, khái quát,
tưởng tượng… để sáng tạo nghệ thuật tạo nên những câu thơ lấp lánh chất trí
tuệ, triết lí.
Hiện nay, cách định
nghĩa về thơ của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong
cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có
thể xem là chung nhất: "Thơ là hình
thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc
mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu".
Định nghĩa này đã nêu rõ nội dung của
thơ là phản ánh đời sống, thể hiện tâm trạng, cảm xúc mạnh mẽ và hình thức nghệ thuật là ngôn ngữ hàm
súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Đặc biệt, đã nêu rõ được sự khác biệt của ngôn ngữ thơ với ngôn
ngữ trong những thể loại văn học khác.
Và
bao quát quá trình sáng tạo và ý nghĩa nội dung, tư tưởng của thơ, Xuân Diệu
khẳng định “Thơ phải xuất phát từ thực
tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua
như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng
độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu của những con người.” (Xuân Diệu)
II.
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA THƠ
- Thơ là một thể loại văn học thuộc
phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú; thơ được phân chia thành
nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù thuộc loại hình nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm.
- Nhân
vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực
tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện.
Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó
máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng
nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
- Thơ
là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời.
- Thơ
tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ chân chính
bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là
cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này.
- Thơ
thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự
kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản
thơ là
sự thể hiện của niềm rung động ấy. Một miếng trầu đem mời, một cái bánh trôi
nước, một tiếng gà gáy canh khuya có thể là những sự kiện
gây cảm xúc cho Hồ Xuân Hương; sự kiện Dương Khuê
qua đời trong "Khóc Dương Khuê" (Nguyễn Khuyến); cuộc đời tài
hoa mệnh bạc của nàng Tiểu Thanh trong "Độc Tiểu Thanh kí" (Nguyễn
Du),...
- Thơ
thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là
nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ,
đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu...
Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn
từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó,
thơ có thể tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo”
để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ
thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà
thơ.
-
Thơ chú trọng đến cái
đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ
có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu
hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu.. .làm tăng sức âm vang
và lan tỏa, thấm sâu của ý thơ. Bàn về đặc điểm này,
nhà thơ Sóng Hồng viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt
thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình
cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng
đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc
điệu khác thường”.
III. NGÔN NGỮ THƠ
1. Ngôn ngữ thơ
a. Ngôn ngữ thơ trước hết cũng mang đặc trưng của ngôn ngữ nghệ
thuật nói chung:
Ngôn ngữ chính là chất liệu và công cụ của nhà văn, nhà thơ.
Ngôn ngữ trong văn học vốn dựa vào ngôn ngữ đời sống nhưng không phải là ngôn
ngữ của đời sống hàng ngày mà là ngôn ngữ được nghệ thuật hóa, cách điệu hóa.
Nhà văn, nhà thơ sử dụng ngôn ngữ một cách trau chuốt, sang tạo để thành một
thớ ngôn ngữ giàu có, sang trọng và đẹp đẽ.
Ngôn ngữ văn học
phải có các đặc trưng như: tính hệ thống, tính chính xác, tính truyền cảm, tính
hình tượng, tính hàm súc, đa nghĩa, tính cá thể hóa… Ngoài ra ngôn ngữ văn học
cần phải trong sáng, phù hợp chuẩn mực để người tiếp nhận có thể hiểu và chấp
nhận sự mới lạ.
b. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ
- Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình. Ý nghĩa
của văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thể hiện trực tiếp, đầy đủ qua
lời thơ mà qua lời thơ, tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi nên.
Ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống đòi hỏi
người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự
phong phú của ý thơ bên trong.
- Ngôn ngữ thơ
trước hết là ngôn ngữ đời sống, và nhiều khi không khác biệt với ngôn ngữ đời
sống. Tuy nhiên, ngôn ngữ thơ không hẳn là thứ ngôn ngữ nguyên sinh của đời sống
mà là ngôn ngữ của sự sáng tạo,
không ngừng biến sinh và có ma lực riêng nhiều khi thoát khỏi ý
thức của người cầm bút trở thành một ám
ảnh vô thức. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ được chưng cất công phu vì "bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của
ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ, tinh tế của ngôn ngữ" hoặc "thơ là phần tinh lọc nhất của ngôn
ngữ".Bởi vậy ngôn ngữ thơ góp phần tích cực tạo nên giá trị thẩm mĩ, làm phong phú thêm
ngôn ngữ đời sống.
- Ngôn ngữ thơ có
tính tư tưởng: Thơ phải giúp nhà thơ bộc lộ tư tưởng, tình cảm nên tư tưởng
trong ngôn ngữ thơ như chiếc dây diều đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong bầu trời của thực và mộng vừa neo thơ lại
bầu khí quyển của đời sống.
Nhìn chung, ngôn
ngữ thơ có vai trò, sức mạnh vô song mà ngôn ngữ các thể laoij khác khó có thể
có được. Ngôn ngữ thơ có thể tác động mạnh đến người đọc và nâng cao nhà thơ
lên một tầm mới, làm nên tên tuổi nhà thơ.
2. Đặc trưng của ngôn
ngữ thơ
So với ngôn ngữ văn
xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có những điểm khác biệt như giạy tính nhạc, họa,
hàm súc và truyền cảm:
2.1. Ngôn ngữ thơ giàu chất
nhạc và chất họa
Thơ – nhạc – hoạ đều là các loại hình nghệ thuật,
song có sự khác biệt, đặc biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để
phản ánh cuộc sống. Nếu hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc dùng giai điệu, âm
thanh thì thơ cũng như các tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu.
Ngôn từ có đặc điểm riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận
thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó
lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi
dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu. Cho nên, người xưa đã nói nhiều đến: Thi
trung hữu họa, thi trung hữu nhạc.
a. Nhạc tính
Thơ trữ tình phản
ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ
không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu
của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của ngôn ngữ (như
cao độ, cường độ, trường độ...) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại,
những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm
nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết. Bởi thế, đặc trưng
tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ
thơ ca.
* Âm thanh: Tính nhạc trong thơ trước
hết được gợi lên từ âm thanh trầm bổng của tự nhiên, đời sống được đưa vào
trong thơ:
Vd: Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cẩm ve lầu
tịch dương
(Cảnh
ngày hè- Nguyễn Trãi)
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
(Tây
Tiến - Quang Dũng)
* Tính nhạc ở nghệ thuật biểu hiện: Theo
các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt cơ bản. Đó
là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp:
- Sự cân đối là sự
tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có thể là hình ảnh, là âm
thanh, chẳng hạn:
"Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi"
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Cũng có thể là cách
sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực, câu luận trong
bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu này không
khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật của phép
đối xứng trong thơ của mình.
- Sự trầm bổng của
ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ cao giữa hai nhóm thanh
điệu. Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã biểu hiện được cảm
xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm:
"Sương nương
theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi"
Chính Tố Hữu đã có
lần nói đến giá trị ngữ âm của từ "xôn xao" trong câu thơ "Gió
lộng xôn xao, sóng biển đu đưa" (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự
nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh, âm
thanh của từ "xôn xao" đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu
ấy. Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:
"Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân".
Dòng thơ cắt theo
nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của tháng năm bốn mùa...
Nhịp thơ ở đây là nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như vậy, âm thanh, nhịp điệu
trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp phần biểu hiện
những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.
- Sự trùng điệp của
ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng
như một phương tiện kết dính các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống
nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho
ngôn ngữ thơ:
"Lầu mưa
xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa
xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân"
(Tiếng đàn mưa- Bích Khê).
Lối điệp từ, điệp
ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của đất trời vừa tạo
nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng người.
Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ
thơ. Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số người có xu hướng bỏ
vần để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc điệu
nội tại nào đó như sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu
của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.
b. Chất họa
Chất liệu của hội họa là hình ảnh, đường nét, màu sắc, … Chất họa trong thơ nghĩa là nhà thơ dùng hình
ảnh, màu sắc, đường nét làm phương tiện diễn đạt tình cảm của mình.
-
Hình ảnh: Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh.
Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng (hình ảnh có
ngụ ý), hình tượng (hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm) nổi bật như thơ ca.
+ Hình ảnh trong thơ trước hết mang vẻ
đẹp trực quan, sinh động, có thể là một giọt nắng, một chiếc lá, một nàng thiếu
nữ, một dáng liễu, một nhành hoa, một ngọn núi, dòng sông, con thuyền, cánh buồm…
+ Có những hình ảnh đẹp đẽ, hài hòa,thơ mộng,mềm mại, nhưng
cũng có những hình ảnh khắc khổ, gớm ghiếc…, mỗi một hình ảnh đều nhằm tái tạo
lại thị giác, cảm quan của thi nhân. Ngôn ngữ mang tính hình tượng phải hợp lí,
tránh khiên cưỡng, gò ép, áp đặt. Nó là kết quả của khả năng quan sát tinh tế,
nhạy bén, vốn sống phong phú và trình độ sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của người
nghệ sĩ.
+ Hình ảnh trong thơ là sự
khách thể hóa những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất
thiết phải dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Không
những quan sát và diễn tả, nhà thơ phải nâng sự quan sát của họ lên đến một mức
độ nhạy bén, hoa mĩ- đây chính là sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ
truyện cũng như ngôn ngữ các loại hình nghệ thuật khác. Bằng chất liệu ngôn từ,
nhà văn không những tái tạo được những cái hữu hình mà còn tái hiện sinh động
và gợi lên một cách trực quan những cái vô hình, những cái mỏng manh mơ hồ nhất
mà các loại hình nghệ thuật khác không làm được. Hình
ảnh trong thơ trở nên nổi bật vì nó mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí
tưởng tượng phong phú. Nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã từng tái hiện sinh động
màu sắc và hương vị của thời gian qua tâm trạng hoài niệm:
“Màu
thời gian không xanh
Màu
thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương
thời gian thanh thanh”
(
Màu thời gian)
- Màu sắc: Trong thơ
cũng có những câu gợi nhiều màu sắc:
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ
lại trắng, vườn cam lại vàng
(Tố Hữu)
Chỉ có hai câu thơ thôi mà đã điểm tên đến năm màu sắc:
Thanh (xanh), hồng, lam, trắng, vàng, nhưng có gợi cho ta một cảm quan hội họa
không?
Nguyễn Du trong truyện Kiều đã có câu
tả mùa xuân thật trong trẻo với lối tả từ xa đến gần, điểm nhấn ở hai màu xanh,
trắng:
Cỏ non xanh
rợn chân trời
Cành lê
trắng, điểm một vài bông hoa…
Màu xanh ngút tầm mắt được
điểm xuyết màu trắng của một vài bông hoa trên cành tạo một gam màu xanh -
trắng nhẹ nhàng, mát dịu, lành lạnh, tạo nên cảm giác xa và rộng.
Trong hội họa, màu
xanh lục có khả năng tạo chiều sâu và chiều xa rất lớn. Để tạo nên cái thăm
thẳm của đất trời, các họa gia Trung Quốc khi vẽ tranh thủy mặc chỉ dùng một
chút màu lục pha với mực nho… thế là tạo nên một hiệu quả khôn lường về không
gian. Cảnh mở ra tầng tầng lớp lớp trước sau từ tỏ cho đến mờ và chìm vào cái
mênh mông của khoảng không xa ngút.
Một câu thơ khác của Nguyễn Du đã tả về mùa hè:
Dưới trăng
quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa
lựu lập lòe đơm bông
Ông đã tả từ gần đến xa, trong cái màu đen của
màn đêm làm nền thì màu đỏ là rất nổi vì đó là cặp màu tương phản. Nó đúng với
tính chất rực rỡ gay gắt của mùa hè
Màu sắc trong sự cảm nhận xa gần của
mắt nhìn có hiệu quả về không gian trên mặt phẳng đó là màu sắc.
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc
non phơi bóng vàng.
(Nguyễn Du - truyện Kiều)
Một không gian mùa thu rất thanh nhẹ: màu lục của
nước quyện với màu lam của nền trời đưa lại cảm quan mơ màng. Bức tranh thực
thực, hư hư mờ ảo: thành như xây bằng khói biếc, núi in hình trên nền trời
chiều…Tất cả như soi bóng trên mặt nước long lanh, bóng vàng của trời chiều
trong gam màu ấy là nóng hơn, tĩnh hơn và nặng hơn. Đây là sự hài hòa của nhiều
cặp tương quan. Tuy nhiên, cảm giác nặng nhẹ của màu sắc còn phụ thuộc vào yếu
tố đậm nhạt. Màu đậm gây cảm giác nặng nề; còn màu nhạt tạo cảm giác thanh nhẹ.
Trong trường hợp nếu ta đặt màu đậm ở dưới, màu nhạt ở trên sẽ được một cảm
giác ổn định, chắc chắn và nâng đỡ. Nếu đặt màu đậm ở trên, màu nhạt ở dưới sẽ
cho ta một cảm giác đè nén chông chênh…
- Đường
nét, hình khối: Cùng với tương quan về màu sắc, đường nét cũng là một tổ
hợp ngôn ngữ trong hội họa. Do các chiều hướng của đường nét khác nhau, thanh
đậm khác nhau mà biến hóa để tạo nên hiệu quả sáng - tối; lồi - lõm; xa - gần;
ẩn - hiện; thực - hư. Trong đó, nét “Thực” là cái rõ ràng, là sáng,
lồi, gần, hiện và tĩnh, nét “Hư” là cái mờ nhạt, là tối, lõm,
ẩn và động.
Vd: “Êm đềm sóng lụa nhô trên
lúa”
(Trưa hè -
Bàng Bá Lân)
Dốc
lên thăm thẳm dốc khúc khuỷu
Heo
hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn
thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà
ai Pha Luông, mưa xa khơi.
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Trong 4 câu thơ của Quang Dũng thì nếu như ba
câu đầu trong khổ thơ trên là những nét vẽ gân guốc, sắc nhọn thì ở câu thứ 4
là một nét vẽ nhòe tạo một không gian xa thẳm. Để tả cái hùng vĩ của thiên
nhiên, tác giả không đi sâu vào chi tiết vụn vặt mà bắt đầu tữ những phác họa
những nét khái quát. Trong hội họa, thuật ngữ này được gọi là "bắt
dáng" đối tượng.
-
Biểu hiện không gian: Hội họa Trung Hoa có
thủ pháp biểu hiện không gian theo ba cách nhìn, gọi là "tam viễn".
+ Nhìn lên gọi là "ngưỡng quan" hoặc "cao
viễn".
+ Nhìn xuống gọi là
"phú thị" hay "thâm viễn".
+ Nhìn ngang gọi là
"bình thị" hay "bình viễn".
Thơ và Họa không
phải lúc nào cũng gặp nhau. Thơ vẫn là thơ - Họa vẫn là họa. Chỉ khi nào những
vần thơ bộc lộ rõ cảm quan về hội họa, tạo được sự hài hòa của các yếu tố tạo
hình và cộng hưởng được với nhau thì ta mới gặp Hội họa trong Thơ mà thôi.
2.2. Ngôn ngữ thơ có
tính hàm súc
Đây là đặc điểm
chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể loại
mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ. Nếu
ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó chấp nhận mọi
lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến cực
độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng, đa chiều
vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính "đặc tuyển". Là thể
loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học,
nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Nói như Ôgiêrốp: "Bài thơ
là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất".
Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải
"thôi xao", nghĩa là phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ
cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ
là "trả chữ với với giá cắt cổ":
"Nhà
thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như
khai thác chất hiếm radium
Lấy
một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy
một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ."
Như vậy, tính hàm
súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc
sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính
là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất kiểu như Nguyễn
Du đã "giết chết" các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến,
mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ
sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào; cái tầm
thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Do quy mô của tác
phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất "tiết kiệm". Tính hàm súc của
ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có nghĩa là
phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của
người nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ "khô" trong câu thơ của Tản Đà:
"Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày" là một từ có tính hàm súc cao
mà những yếu tố tương đương với nó (như "tuôn") không thể thay thế.
Nó không chỉ diễn tả được chiều sâu của tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài
của những tháng năm chờ đợi. Nó vừa đảm bảo được tính chính xác, tính hình
tượng, vừa có tính truyền cảm.
Để đạt được tính
hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn của cuộc sống trong những
cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức
đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là "quái đản". Dưới áp lực
của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng
lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế
hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ. Ví dụ: Khi
Hồng Nguyên viết: "Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau" thì chính
trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ "đột kích" được
cấp cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của
Lâm Thị Mỹ Dạ: "Em đã lấy tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa" thì sự
kết hợp bất thường về nghĩa đã mở ra những liên tưởng hết sức thú vị. Trong đời
thường, khi nói đến việc "thắp lửa", người ta một là nghĩ đến phương
tiện như: cái bật lửa, que diêm ... hai là nguyên liệu như: dầu hoả, dầu dừa
... Ở đây, nhà thơ lại thay nó bằng một "chất liệu" rất trừu tượng
thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong quan hệ với cái chất liệu trừu tượng đó, nghĩa
bề mặt của "ngọn lửa" bị mờ đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân
lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời...
Định lượng số tiếng
trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật độ dày đặc các phương
tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong một bài thơ, có thể
thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau, như ẩn dụ, hoán
dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây là
một ví dụ:
"Khăn
thương nhớ ai
Khăn
rơi xuống đất
Khăn
thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn
thương nhơ ai
Mà
đèn không tắt
Mắt
thương nhớ ai
Mắt
ngủ không yên
Đêm
qua em những lo phiền
Lo
vì một nỗi không yên một bề."
Bài ca dao có số
lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện được tâm trạng
khắc khoải nhớ mong của người con gái dường như còn vang mãi, dư âm đến tận bây
giờ và cả mai sau, không chỉ của một người mà của nhiều người.
2.3. Ngôn ngữ thơ có
tính truyền cảm
Tính truyền cảm
cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi tác phẩm
văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước cảnh đời, cảnh người,
trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải biểu hiện
được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác giả đến người đọc,
khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy nhiên, do đặc trưng
của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có
tác dụng gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không
bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như ngôn ngữ trong tác
phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải
thích... thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm. Khi Quang Dũng viết:
"Người
đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có
thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có
nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa"
Quang Dũng không có
ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu
tình không mà tác giả khơi trong ta nỗi nhớ thương mất mát, nuối tiếc ngậm
ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan biến trong đời...
Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng
thời phản ánh tâm trạng của chính mình.
Lời thơ thường là
lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với cuộc đời. Là lời đánh
giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ
trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng
cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:
"Ôi
những cánh đồng quê chảy máu
Dây
thép gai đâm nát trời chiều"
(Nguyễn
Đình Thi).
Ở đây, mỗi câu thơ
đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình cảm. Những từ đó như là
những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác giả. Tính truyền cảm của ngôn
ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ ngữ, các phương thức tu từ mà
còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ. Chẳng hạn:
"Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn"
(Tố Hữu).
3. Nhịp điệu trong thơ
Trong nhạc phẩm Tình khúc Ơbai, Trịnh Công Sơn đã
viết:
“Tôi đi bằng nhịp điệu một, hai, ba, bốn, năm…
Em đi bằng nhịp điệu sáu, bảy, tám, chín, mười…
Ta đi bằng nhịp điệu, nhịp điệu không giống nhau
Ta đi bằng nhịp điệu nhịp điệu sao khác màu …”
Đó là sự khác nhau trong
nhịp điệu, trong sắc màu cuộc sống. Bước chân của tôi, của em, của ta làm sao để có thể hòa nhịp giữa cõi vô thường …
Những ca từ của Trịnh Công Sơn thật dung dị mà minh triết. Cũng như nhịp điệu
cuộc sống, nhịp điệu thế giới thơ ca vô cùng phong phú. Nhận diện nhịp điệu
trong thơ trữ tình còn là những trăn trở của nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn
học.
3.1.
Khái niệm nhịp thơ
Cũng như “Thơ là gì ?”,
cho đến nay câu hỏi nhịp điệu trong thơ là gì thường còn mang tính chất cảm
nhận của cá nhân. Theo Tự điển tiếng Việt cuả
nhóm tác giả Minh Tân – Thanh Nghi - Xuân Lãm do nhà xuất bản Thuận Hóa,
1998) thì nhịp điệu là sự lặp lại một cách tuần hoàn các
âm mạnh và nhẹ sắp xếp theo những hình thức nhất định. Theo GS
TS Mã Giang Lân trong Nhịp điệu thơ hôm nay đăng
trên Văn học nghệ thuật Đà Nẵng (nguồn google.com): “Theo
nghĩa rộng nhất, nhịp điệu là hình thức phân bố trong thời gian những chuyển
động nào đó, như vậy có thể nói về nhịp điệu của bất kỳ sự chuyển động, trong
đó có âm thanh của bất kỳ thứ ngôn ngữ nào chúng ta nghe được mà không cần hiểu
nghĩa. Nhịp điệu thể hiện tính chất đều đặn của chuyển động, sự cân đối của
những độ dài về thời gian hay sự luân phiên dưới dạng chuyển động âm thanh (Ở
đây không tính đến khái niệm nhịp điệu thường được áp dụng vào các quá trình
sinh lý như thở, mạch đập của tim và những chuyển động như đi bộ...)”.
Trong bài Mấy ý nghĩ về thơ (1949), Nguyễn Đình Thi quan
niệm: "Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc
trắc, lên bổng xuống trầm của tiếng đàn bên tai (...). Thơ có một thứ nhạc nữa,
một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung
là của tâm hồn (...). Đó là nhịp điệu thành hình của những cảm xúc, hình ảnh
liên tiếp hòa hợp mà những tiếng và chữ gợi ra như những ngân vang dài, ngay
những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín
đáo của sự xúc động". (GS TS Mã Giang Lân, Nhịp điệu thơ hôm nay đăng trên Văn học nghệ thuật
Đà Nẵng (nguồn google.com).
Maiacốpxki cho rằng: “Nhịp điệu là sức mạnh chủ yếu, là năng lượng của câu thơ”… Vậy
thì có thể hiểu một cách đơn giản nhịp điệu như là sự rung động tâm hồn, là
mạch cảm xúc được thể hiện ngoài lớp vỏ ngôn từ, tạo tác động, ấn tượng lên tâm
thức người tiếp cận tác phẩm để thực hiện chức năng thông tin thẩm mỹ. Nói nhịp
điệu trong thơ là sự chia cắt dòng âm thanh, sự phân đoạn câu thơ, dòng thơ
giúp người đọc cảm thụ một cách trực tiếp. Mở rộng ra thì nhịp điệu trong thơ
là một khái niệm chỉ một đơn vị ngôn ngữ nằm bên trong bản thân kiến trúc ngôn
từ và qui định kiểu kiến trúc ấy, được khu biệt về quy tắc tổ chức âm thanh, là
nhân tố vận động cả ở phương diện ngữ nghĩa và âm thanh. Nhịp điệu thay đổi tạo
nên cảm giác lời thơ vận động nghệ thuật theo quy luật chủ quan của chủ thể
sáng tác đồng thời tác động đến tâm lý tình cảm của chủ thể tiếp cận theo chức
năng thông tin thẩm mỹ.
3.2.
Vai trò và chức năng của nhip điệu trong thơ
- Người ta không thể đọc
bài thơ liên tục từ những từ ngữ đầu tiên đến kết thúc mà không ngừng nghỉ.
Nhịp điệu gắn liền với chỗ ngừng, chỗ ngắt được phân bố hợp lý theo mạch cảm
xúc để diễn đạt nội dung thẩm mỹ.
- Cảm nhận được nhịp
điệu của thơ sẽ tạo nên sự khám phá mới, thú vị. Theo Trần Thiện Khanh
trong Nguyên lý cấu trúc của thơ (nguồn google.com) cho
rằng: “Nhịp điệu trở thành ngôn ngữ đặc biệt của thơ, nó biểu hiện được
bao ý tình mà từ ngữ không thể nói hết được. Nhịp điệu - một khi được cảm xúc
hoá, cá tính hoá sẽ mài sắc cảm nhận, cảm giác của người đọc. Đọc bài thơ giàu
tính nhạc, người đọc như được sống trong cảm giác mới mà trước đó chưa từng
biết”.
- Nhịp điệu trong thơ được quy định qui ước
chung của thể loại, song mặt khác lại tự vận động theo mạch cảm xúc riêng tạo
nét chấm phá trong ý thơ. Ví dụ thơ thất ngôn bát cú thường là 4/3.
- Hình thái nhịp điệu
hiện thực hoá cấu trúc ý thơ, tứ thơ, tạo nên nhạc điệu. Không phải ngẫu nhiên
mà nhiều bài thơ trong âm hưởng tự nhiên của nó đã tạo nên nhạc điệu.
- Nhịp điệu trong thơ
làm tăng thông tin thẩm mỹ của bài thơ. Nhịp điệu của thơ bao hàm các yếu tố
giai điệu (trầm - bổng), tiết tấu (mau - thưa), nhạc
điệu (tính nhạc của thơ), ngắt trong câu, dấu câu, ngừng hết
câu, dòng thơ, nhấn (từ láy, vần, từ Hán -Việt, điệp từ, từ địa
phương ...) Nhịp điệu trong câu thơ là khoảng lặng không lời
mà lại diễn đạt nhiều cảm xúc. Nhịp điệu không chỉ tách ý tách nghĩa mà còn thể
hiện thế giới nội tâm của nhà thơ, thể hiện những cảm xúc được dấu kín, dè nén,
mà không thể tìm thấy trong ngôn từ, trong âm thanh.
3.3.
Tín hiệu nhận diện nhịp điệu trong thơ
Nhìn trên tổng thể có thể chia nhịp điệu thành 3
loại sau:
- Nhịp điệu được thực hiện qua các dấu câu, dòng thơ, câu thơ.
- Nhịp điệu thực hiện không thông qua dấu câu (nhịp thơ, vần, từ láy, từ Hán – Việt…).
- Các biện pháp tu từ nghệ thuật cũng góp phần tạo
nên nhịp điệu trong thơ, nhất là phép tu từ điệp ngữ. Chính điệp ngữ tạo nên
tính hùng biện cho văn và nhạc điệu cho thơ. Ngoài ra còn nhiều phép tu từ khác
như so sánh, điển cố, ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ… góp phần tạo nên nhịp điệu cho
thơ.
3.4.
Nhịp trong các thể thơ
*Thơ lục bát: Nhịp chẵn (nhịp 2/2/2, 4/4) ở lục bát tạo ra
giọng mềm mại, tha thiết như lời ru êm ái. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
để tạo nét nhấn, một số tác giả có cách ngắt nhịp theo dụng ý riêng nhằm tạo ấn
tượng.
*Thơ
Đường luật: Nhịp thơ thất ngôn bát cú với lối ngắt nhịp 2/2/3 hoặc 4/3 (gọi chung là nhịp lẻ) tạo ra giọng điệu hào sảng, trang
trọng. Tuy nhiên ở một số trường hợp, sự thay đổi nhịp điệu tạo nên ý hàm súc.
*Thơ
song thất lục bát: Trong thơ song thất lục bát, hai câu thất tạo âm hưởng mạnh mẽ
dứt khoát qua nhịp 3/4 được kết hợp hài hòa với nhịp chẵn của lục bát tạo nhịp
điệu uyển chuyển.
*Thơ
tự do:
Nhịp thơ chỉ tác động
vào tình cảm người tiếp cận để hóa thành giai điệu biểu đạt tình ý. Có lúc nhịp
thơ góp phần vào bố cục câu thơ, dòng thơ, khổ thơ làm tăng khả năng diễn đạt tứ
thơ. Đối với thơ tự do, nhịp thơ dàn trải theo cảm xúc của chủ thể sáng
tạo nên rất đa dạng.
4. Giọng điệu trong tác phẩm văn học (bao gồm cả
thơ)
Nhà nghiên cứu Khrapchencô đã từng khẳng định: "Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong
một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi của thái độ cảm xúc nhất
định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó".
4.1.
Khái niệm: Giọng điệu (tiếng Anh: tone) là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng,
đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc diệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,… Chẳng hạn, trong thơ
tình yêu của Thế Lữ, theo Hoài Thanh, có giọng điệu “lẳng lơ mà xa vời và thiếu
tình ấm áp” thể hiện ở cách gọi thiếu nữ là cô em, do chưa đủ thân mật để gọi
bằng em ; giọng điệu ngọt ngào, êm ái trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng,
giọng điệu suồng sã, đay nghiến trong Chí Phèo của Nam Cao, giọng điệu mỉa mai,
châm biếm trong “Vịnh khoa thi hương” của Tú Xương…
4.2.
Vai trò của giọng điệu trong tác phẩm văn học:
- Giọng điệu phản ánh
lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẳm mỹ của tác giả có vai trò
rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người
đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm,
mặc dù đã có đủ tài liệu và sấp xếp trong hệ thống nhân vật.
- Không nên lẫn lộn giọng điệu với ngữ điệu là phương tiện biểu hiện của
lời nói, thể hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp diệu,… chỗ ngừng.
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần
thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng
điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng “trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang
nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong
tác phẩm có giá trị thường da dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu
cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu.
5. Âm điệu trong thơ
5.1.
Khái niệm:
Âm điệu là sự hòa điệu giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ, là dạng
thức hết sức vi diệu của điệu hồn trong thơ. Cảm xúc được gợi ra từ nghệ thuật
tổ chức các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, thanh điệu, vần điệu, giọng điệu… thể
hiện điệu hồn, chiều sâu xúc cảm, tinh thần của bài thơ.
=> Âm điệu là phương tiện đắc lực trong việc thể hiện cảm xúc và linh
hồn của bài thơ, cảm xúc hóa thân trong âm điệu thơ.
5.2.
Vai trò của âm điệu trong thơ
- Đặc trưng của thơ là trữ tình, nghiêng về biểu hiện thế giới chủ quan
của con người với trạng thái tình cảm, rung động (thơ là tiếng lòng, là rung
cảm mãnh liệt của nhà thơ trước cuộc sống). Nội dung cảm xúc trong thơ được thể
hiện qua âm điệu, cụ thể là qua cách tổ chức ngôn từ đặc biệt, hàm súc, giàu
nhạc tính, cụ thể các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, vần điệu, thanh điệu, giọng
điệu…
- Âm điệu có vai trò quan trọng
trong việc bộc lộ cảm xúc, chiều sâu tư tưởng của thi phẩm. Đọc thơ, cảm được
âm điệu coi như đã nhập được vào hồn thơ, chạm vào được “cõi thơ” thực sự.
- Trong thực tế, có rất nhiều bài thơ mà sức hấp dẫn, sức sống của nó
trong lòng người đọc bắt đầu từ âm điệu. Vì âm điệu:
+ Tạo nên sự hấp dẫn cho bài thơ về mặt nghệ thuật, đặc biệt là âm vang
của lời thơ.
+ Dẫn dắt, hòa điệu tâm hồn người đọc vào thế giới cảm xúc lắng sâu cùng
điệu hồn thi phẩm.
- Mỗi thi phẩm có một âm điệu riêng với cách tổ chức các yếu tố nghệ
thuật riêng. Chỉ khi bài thơ là kết quả của sự rung động mãnh liệt và sự sáng
tạo độc đáo trong cách tổ chức ngôn từ thì âm điệu thơ mới trở nên ngân vang.
Như thế, âm điệu đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ quan trọng của bài thơ.
- Âm điệu không chỉ có ý nghĩa với người sáng tác mà còn là sự định
hướng, gợi mở cho người tiếp nhận, đọc thơ, cần “lấy hồn tôi để hiểu hồn
người”, cần nắm bắt âm điệu thơ để đến được điệu hồn thi phẩm.
=> Từ phương diện âm điệu, có thể thấy được thực tài, thực tâm của
người nghệ sĩ, đó cũng là một yêu cầu để thi phẩm có sức sống lâu bền trong
lòng người đọc.
LUYỆN ĐỀ
Đề
số 1: Nghĩ
về thơ, Thanh Thảo tâm sự: Kỳ lạ, là thơ. Lúc ta cất công tìm nó, thì nó
chạy đi đâu, còn lúc tình cờ, ta chợt nghe trong mình một tiếng nói, cứ như ai
mượn ta hay nhập vào ai, không rõ bắt đầu, không định kết thúc.
Bằng những hiểu biết về
các tác phẩm thơ anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. (Quá trình sáng tác và
cảm hứng)
1. Giải thích:
- Lúc cất công tìm nó
thì nó chạy đi đâu: Lúc người nghệ sĩ gò câu ép chữ, gượng mình viết thơ. Cảm
xúc không chân thật, sản phẩm viết ra chỉ là một sáng tác mang tính hô hào, cổ
động, đó chỉ là sản phẩm mang hình thức thơ, thiếu cảm xúc hoặc cảm xúc nhạt
nhẽo, vô vị, người ta đọc rồi quên ngay. Đó là những xác chữ không hồn nằm
thẳng đơ trên trang giấy. Thơ không phải là sự ghi chép, lắp ghép câu chữ, dụng
công sáng tác.
- Lúc tình cờ, ta chợt
nghe trong lòng mình một tiếng nói, cứ như ai mượn ta hay nhập vào, không rõ
bắt đầu, không rõ kết thúc: Thơ đến bất chợt trong giây phút, thôi thúc người
nghệ sĩ cầm bút viết, viết như một sự hối thúc mà không biết đã bắt đầu như thế
nào, kết thúc ra sao, cảm xúc dào dạt thăng hoa. Đó là những khoảnh khắc xuất
thần của nhà thơ tạo nên những sáng tác
=> Khẳng định bản
chất của thơ ca, thơ bắt nguồn từ cảm xúc. “Thiếu tình cảm thì có thể trở thành
người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ” (nhà thơ Cuba. Jose
Martin)
2. Lí giải:
2.1. Nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng là
sản phẩm của cảm xúc.
- “Tình cảm là sợi dọc
của văn. Còn lời văn là sợi ngang của tư tưởng. Cái sợi dọc có ngay thẳng thì
cái sợi ngang mới kết thành được. (Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long”)
- “Nghệ thuật bao
giờ cũng là tiếng nói cuả tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm
tư” (Lê Ngọc Trà)
- L.Tôn x tôi: “Một tác
phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người và ước mơ cháy bỏng
vì một xã hội công bằng, bình đẳng bác ái”
=> Tình cảm, cảm xúc làm cho nghệ thuật thăng
hoa và có sức sống mãnh liệt.
2.2. Tình cảm, cảm xúc giữ một vị trí trọng yếu
trong cảm hứng của người làm thơ.
- Từ muôn xưa Việt Nam
đã dùng thơ ca để nói lên những nỗi vui, buồn, mừng giận, âu lo, ước mong thầm
kín trong lòng mình.
+ Ngô Thì Nhậm “Tình cảm dồi dào thì thơ
nảy sinh”
+ Eliot: Thơ là một lối thoát của cảm xúc
- Tình cảm đó còn lúc
tình cờ, ta chợt nghe trong mình một tiếng nói, cứ như ai mượn ta hay nhập vào
ai, không rõ bắt đầu, không định kết thúc”. Cảm xúc trong thơ đến bất chợt tình
cờ, không có ý sắp đặt, bởi cội nguồn của thơ ca là cảm xúc dồi dào mãnh liệt
của tâm hồn nhà thơ khi va chạm với cuộc đời
- Nhưng những cảm xúc bất
chợt đó không phải là những tình cảm dễ dãi mang tính bản năng mà là tình cảm
được lắng đọng qua cảm xúc thẩm mĩ. Đó là những phút lóe sáng khi tâm hồn nghệ
sĩ đạt đến độ chín nhất “thơ là sự chín đỏ trong cảm xúc” (vận dụng kiến thức
lí luận về thơ ca)
- Những cảm xúc bất chợt
đến đã toát lên tư tưởng sâu sắc, mới mẻ. Thơ không chấp nhận những triết lý
khô khan, giáo điều. Chính giây phút thăng hoa nhà thơ viết được những vần thơ
có ý nghĩa, kết đọng ở bề sâu. Qua mỗi vần thơ ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn
của nhà thơ và những tư tưởng nhân văn tiến bộ hướng đến giá trị Chân Thiện Mĩ.
- Tiếng lòng thổn thức
của nhà thơ phải được thể hiện qua thủ pháp nghệ thuật đa dạng phong phú “Thơ
ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Thế giới nghệ thuật đó luôn ẩn
chứa cá tính sáng tạo, độc đáo của người nghệ sĩ.
3. Chứng minh
- Học sinh có thể vận
dụng những hiểu biết của mình để làm sáng tỏ vấn đề:
+ Thơ Nguyễn Du hoặc Hồ Xuân Hương
+ “Đây thôn Vĩ Dạ”-Là sự thăng hoa của cảm xúc
sau bao tháng ngày ấp ủ tình cảm với thôn Vĩ với người con gái xứ Huế. Khi nhận
bức bưu thiếp của Hoàng Cúc, trái tim nghệ sĩ đã trào dâng cảm xúc mãnh liệt
viết nên “Đây thôn vĩ Dạ”.
+ “Bên kia sông Đuống”-Hoàng Cầm
+ “Tràng giang” của Huy Cận.
4. Đánh giá – Mở rộng
- Nhận xét của Thanh
Thảo đã đề cao vai trò của cảm xúc. Để có được những cảm xúc bất chợt đến và
tạo nên sáng tác chứa đựng những tư tưởng cao đẹp người nghệ sĩ phải sống trọn
vẹn từng khoảnh khắc với cuộc đời.
- Không có tài năng nghệ
thuật đủ chín, câu chữ, tứ thơ non nớt, hình ảnh nhạt nhòa thì dù có trái tim
có căng tràn nhựa sống, cảm xúc tuôn trào cũng không thể có thơ.
- Thái độ tiếp nhận của
người đọc.
Đề số 2: Thơ thể hiện cảm xúc,
suy nghĩ, tâm trạng con người bằng ngôn ngữ cô đọng, gợi cảm giàu hình ảnh và
nhạc điệu. (trích SGK Ngữ văn 11- Tập
một, NXB GD, năm 2016, tr136).
Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ Vội vàng của
Xuân Diệu và đoạn trích Đất Nước (trích
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm hãy làm sáng
tỏ ý kiến trên.
1. Giải thích
- Thơ thể hiện cảm
xúc, suy nghĩ, tâm trạng con người: đề
cập đến phương diện nội dung của thơ. Cốt lõi của thơ là cảm xúc, gắn với chiều
sâu thế giới nội tâm của con người nên tác phẩm thơ là những rung động tâm hồn,
suy ngẫm sâu xa, những trạng thái tâm lí của thi nhân trước thiên nhiên, cuộc
sống con người.
- Ngôn ngữ cô đọng, gợi cảm, giàu hình ảnh và
nhạc điệu: đề cập đến phương diện nghệ thuật của thơ. Ngôn ngữ thơ đòi hỏi sự chắt lọc, gọt giũa chau chuốt tỉ mỉ; nhạc
điệu của thơ không chỉ là tính nhạc trầm
bổng do cách phối thanh mà còn là nhạc
điệu của tâm hồn.
- Nhận định nói lên
đặc trưng của thơ là diễn tả đời sống nội tâm phong phú, sâu sắc của con người
bằng ngôn ngữ, hình ảnh,… chắt lọc, biểu cảm, hấp dẫn.
2. Lí giải ý kiến
Ý kiến trên hoàn
toàn chính xác vì xuất phát từ đặc trưng
của thơ ca:
- Văn học phản ánh đời sống con người, với thơ ca, cuộc sống không chỉ là
hiện thực xã hội bên ngoài mà còn là đời
sống tâm hồn, tình cảm phong phú, là suy nghĩ, tâm trạng của chính nhà thơ. Thơ
là tiếng nói của tình cảm, cmar xúc, nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ
không thể sáng tạ nên những vần thơ hay, những câu thơ sẽ chỉ là những xác chữ
vô hồn trên trang giấy, nói như Ngô Thì
Nhậm, thi sĩ phải xúc động hồn thơ
cho ngọn bút có thần”
- Cảm xúc suy nghĩ
trong thơ không phải là thứ cảm xúc, suy nghĩ hời hợt. Đó phải là suy nghĩ ở độ
chin, tình cảm ở mức độ mãnh liệt nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút sáng
tạo. Nhà thơ phải sống gắn bó với cuộc đời mới có thể viết nên những vần thơ có
giá trị sâu sắc, cảm xúc đạt đến độ phổ quát nhân loại.
- Tình cảm, cảm xúc,
suy ngẫm, tâm trạng của con người trong thơ phải được truyền tải bằng một hình thức nghệ thuật
độc đáo, mang tính thẩm mĩ. Điều đó đem lại cho thơ vẻ đẹp hoàn mĩ.
3. Chứng minh: Qua bài thơ Vội vàng
của Xuân Diệu và đoạn trích Đất Nước (trích
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm
a.
Bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu)
- Giới thiệu tác
giả, tác phẩm.
*Những cảm xúc, suy
nghĩ, tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Bao trùm bài thơ
là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với tình yêu cuộc sống đến thiết tha cuồng nhiệt.
+ Bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, Xuân Diệu nhìn thế
giới như một thiên đường trên mặt đất
với cảm xúc sung sướng, say mê, rạo rực, đắm say( Của ong bướm… cặp môi gần).
+ Thi sĩ băn khoăn,
tiếc nuối trước thời gian tuyến tính một
đi không trở lại khi tuổi xuân đời người hữu hạn(Xuân đương tới…chiều hôm).
+ Thi sĩ muốn tắt
nắng buộc gió để lưu mãi hương sắc cuộc sống trần gian( 4 câu đầu).
+ Một tiếng lòng tha
thiết cuồng nhiệt khát khao giao cảm với
đời, tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp cuộc sống trần thế( Ta muốn…cắn vào ngươi).
*Ngôn ngữ thơ cô đọng, gợi cảm, giàu hình ảnh, nhạc điệu:
Tác giả lựa chọn được hình thức nghệ thuật phù hợp để bộc lộ cảm xúc.
- Ngôn ngữ thơ vừa
chính xác, vừa mới mẻ táo bạo, sử dụng nhiều động từ mạnh, các tính từ miêu tả
kết hợp các biện pháp tu từ so sánh, điệp từ, liệt kê, bút pháp tương giao.
- Hình ảnh thơ táo
bạo, mới lạ, gợi cảm (ánh sáng hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần…)
- Thể thơ tự do với
các dòng thơ dài ngắn không đều, nhịp
thơ thay đổi linh hoạt, giọng điệu đắm say, sôi nổi mang âm hưởng của thơ trữ
tình điệu nói; cấu trúc theo lối triết luận, vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh
liệt, cháy bỏng vừa logic, chặt chẽ phù hợp
diễn tả cảm xúc sôi nổi dâng trào của thi sĩ.
b.
Đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Giới thiệu tác
giả, tác phẩm.
*Những cảm xúc, suy
nghĩ của nhân vật trữ tình.
- Bao trùm đoạn
trích là những suy nghĩ, cảm xúc chân
thành của nhà thơ về đất nước.
+ Từ cảm xúc chân thành, nhà thơ đã cảm nhận về đất nước từ những cái gần gũi, bình dị trong cuộc sống
hằng ngày rồi mở ra với Thời gian đằng đẵng- Không gian mênh mông
trong những truyền thuyết về thời dựng
nước.
+ Suy nghĩ, cảm
xúc của nhà thơ về đất nước: Đất
nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi
con người. Cuộc đời của mỗi cá nhân đều
được hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân. Do đó, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Lời thơ nhắn nhủ tới thế hệ
trẻ về trách nhiệm với đất nước, đồng
thời cũng là lời tự nhủ, tự dặn mình chân thành, tha thiết của nhà thơ . ( Trong anh và em..
Đất Nước muôn đời).
+ Với cảm hứng tự
hào, say sưa , nhà thơ cảm nhận về đất nước
theo các bình diện không gian địa lí, thời gian lịch sử, chiều sâu văn
hóa và tâm hồn dân tộc. Nhưng tất cả các bình diện ấy đều được nhìn
nhận và phát hiện từ một tư tưởng nhất
quán và bao trùm: Đất nước của nhân dân, chính nhân dân đã làm ra đất nước. Sự
cảm nhận ấy về đất nước được gợi ra từ những thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn
với những tên người bình dị rồi hướng
đến lịch sử 4000 năm với những lớp
người Không ai nhớ mặt đặt tên- Nhưng họ
đã làm nên Đất Nước. Mạch suy tưởng của
tác giả dẫn đến một khái quát cô đọng đúc kết một chân lí Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
+ Đằng sau những suy
nghĩ, cảm nhận mới mẻ về đất nước chính
là tình yêu nước thiết tha: Ca ngợi
công lao to lớn của nhân dân trên hành trình dựng nước; niềm tự hào của tác giả về đất nước thân thương gần gũi; thể hiện niềm
tin và hi vọng vào tương lai thanh bình của đất nước.
*Ngôn ngữ cô đọng,
gợi , giàu hình ảnh và nhạc điệu:
- Ngôn ngữ thơ vừa
gần gũi, chân thực giản dị, tự nhiên, giàu sức gợi vmới mẻ, hiện đại. Ẩn sâu trong đó là vẻ đẹp
trí tuệ, văn hóa và một tình yêu đối với đất nước.
- Hình ảnh thơ gợi
hình, gợi cảm, đậm chất liệu văn hóa, văn học dân gian, gợi liên tưởng sâu sắc về không gian, thời gian
của lịch sử và văn hóa với biết bao
thăng trầm thay đổi của đất nước và những con người đã làm nên đất nước.
- Thể thơ tự do với
những câu thơ co duỗi linh hoạt , linh hoạt, thay đổi nhịp điệu phù hợp với mạch cảm xúc tuôn trào và tính hiện đại trong thơ Nguyễn Khoa Điềm; kết
hợp nhuần nhuyễn chất chính luận
và trữ tình, cảm xúc và suy tư sâu
lắng…; Điều đó tạo cho đonạ thơ giọng
điệu riêng: vừa thủ thỉ tâm tình sâu lắng, thiết tha vừa đầy suy tư triết lí. Tất cả góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật trữ
tình – chính luận độc đáo của Nguyễn
Khoa Điềm.
Lưu ý: Trong mỗi
luận điểm trên, học sinh cần lựa chọn dẫn chứng để phân tích, làm sáng tỏ vấn
đề.
4. Bình luận
- Nhận định trên đã
chỉ ra đặc trưng của thể loại thơ ở cả
hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Cụ thể tình cảm, cảm xúc, suy
nghĩ, tâm trạng của con người trong thơ phải được thể hiện qua một
hình thức nghệ thuật độc đáo.
- Vội vàng và
đoạn trích Đất Nước trích trường ca Mặt đường khát vọng là minh chứng
tiêu biểu cho qua điểm Thơ thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con
người bằng ngôn ngữ cô đọng, gợi cảm giàu hình ảnh và nhạc điệu.
- Bài học đối với
người sáng tác và người tiếp nhận:
+ Đối với người sáng
tác: Càn phải có cái Tài và cái Tâm, phải dày công sáng tạo trau chuốt ngôn từ, chọn lọc hình ảnh; ..phải
có những rung động tinh tế, những cảm xúc, suy nghĩ chân thành, gắn bó sâu sắc với cuộc đời, con
người để tác phẩm thơ thật sự đặc sắc về
nghệ thuật và sâu sắc về nội dung tư
tưởng.
+ Đối với người đọc:
Hướng tới Chân- Thiện- Mĩ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm trong sáng, trí tuệ
phong phú thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ để
cảm nhận được cảm xúc, tư tưởng của tác
giả trong tác phẩm, từ đó trở thành bạn
đọc đồng sáng tạo với người sáng tác.
Đề số 3: Bàn về thơ, Xuân Diệu cho rằng:
Người đọc muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống,
nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí
tuệ phải in dấu ấn vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay.
(Xuân Diệu, Toàn tập, Tập 5, NXB Văn học,
Hà Nội, 2001, tr 36).
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu (Ngữ văn 11,
Tập 2, NXB Giáo dục) và bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng (Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục), hãy làm
sáng tỏ ý kiến trên.
1. Giải thích
- Nguồn gốc của thơ ca “phải xuất phát từ thực
tại”: thơ được sinh ra từ trong hiện thực cuộc đời, từ thế giới tình cảm của
con người, là người thư kí trung thành của tâm hồn con người. Nhưng hiện thực
đó “phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ” là hiện thực được cảm nhận qua lăng
kính chủ quan của người nghệ sĩ. Thơ chính là “hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”.
- Nội dung của thơ ca phải thể hiện
được tình cảm và tư tưởng (tâm hồn, trí tuệ) của thi nhân để rồi đưa tình cảm
tư tưởng đó đến với người đọc. Thơ chính là tiếng nói của một cái tôi cá nhân
trước cuộc đời.
- Nghệ thuật sáng tạo thơ ca “càng
cá thể, càng độc đáo, càng hay”: thơ phải mang dấu ấn sáng tạo, thể hiện chất
riêng biệt của thi nhân.
Tóm
lại: Đối với Xuân Diệu, một tác phẩm thơ cần bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống,
thể hiện những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ, sâu sắc, độc đáo cả về nội dung tư
tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Có như vậy, thơ mới trở thành một chỉnh thể
nghệ thuật giàu giá trị thẩm mĩ.
2. Lý giải ý kiến
- Cuộc sống là điểm xuất phát, là đề
tài vô tận, là đối tượng khám phá của thơ ca nghệ thuật, gợi nhiều cảm xúc
phong phú:
+ Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc của
người nghệ sĩ, nhưng tình cảm, cảm xúc ấy bao giờ cũng bắt rễ từ hiện thực cuộc
đời. Hiện thực chính là điểm tựa cho cảm xúc, tình cảm, là cội nguồn không bao
giờ vơi cạn để con người trữ tình bộc lộ cảm xúc và suy tưởng. Nếu tách rời
hiện thực khách quan, thì cảm xúc và ý nghĩ sẽ không có cơ sở hiện thực để nảy
sinh.
+ Hiện thực chân thực bao giờ cũng có khả năng
dồn nén sức biểu cảm, khơi gợi tình cảm mãnh liệt, có sức dư ba lớn.
- Vẻ đẹp của thơ ca trước hết thể
hiện ở những tư tưởng, tình cảm mà tác phẩm hàm chứa, là dấu ấn trí tuệ, tâm
hồn của thi sĩ. Thơ thể hiện thế giới chủ quan của người nghệ sĩ. Tình cảm, tư
tưởng trong thơ trước hết là của cá nhân tác giả, là thế giới riêng tư của tác
giả nảy sinh từ hiện thực.
- Vẻ đẹp của thơ còn được đánh giá ở
sự sáng tạo hình thức “càng cá thể, càng độc đáo, càng hay”:
+ Bản chất nghệ thuật là sáng tạo, vì thế thơ
ca không chỉ đòi hỏi nhà thơ phải in dấu tâm hồn, thể hiện cảm xúc mà còn phải
in dấu cả trí tuệ, thể hiện tài năng trong việc sáng tạo hình thức biểu hiện.
Thiếu sự sáng tạo thì tác phẩm và tên tuổi của tác giả sẽ không thể tồn tại.
+ Sự sáng tạo về hình thức biểu hiện của thơ
ca rất phong phú, từ thể loại, cấu tứ, ngôn ngữ, hình ảnh thơ…Sự sáng tạo này
tạo nên cách nói mới về những đề tài không mới, làm nên sự không lặp lại mình,
không lặp lại người khác, đồng thời mang đến sức sống của thơ.
3. Chứng minh qua bài Từ ấy của Tố Hữu và bài Tây Tiến của
Quang Dũng
a. Bài thơ
Từ ấy củaTố Hữu
- Từ ấy “xuất phát từ thực tại”:
Tháng 7/1938, sau thời gian tham gia phong trào đấu tranh cách mạng của
Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế, Tố Hữu vinh dự được kết nạp vào Đảng cộng sản.
Niềm vui sướng hân hoan và tự hào khi được đứng dưới hàng ngũ của Đảng là cảm
xúc chân thực từ trái tim của người chiến sĩ trẻ. Ngày được đứng vào hàng ngũ
những người cùng phấn đấu vì một lí tưởng cao đẹp là bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời nhà thơ. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với những cảm xúc, suy tư
sâu sắc, Tố Hữu viết Từ ấy. Bài thơ Từ ấy là tiếng nói của riêng Tố Hữu, là
tuyên ngôn về lẽ sống đích thực của nhà thơ.
- Từ ấy thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, trí
tuệ của Tố Hữu:
+ Niềm vui sướng say mê khi bắt gặp
lí tưởng của Đảng: giữa lúc đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, đang “Bâng
khuâng đứng giữa hai dòng nước/Chọn một dòng hay để nước trôi”, nhà thơ được
giác ngộ lí tưởng cộng sản. Lí tưởng như nguồn sáng mặt trời chiếu rọi tâm hồn
chàng thanh niên, khiến tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi Tố Hữu vui sướng vô
hạn, như được sưởi ấm và thức tỉnh.
+ Những nhận thức sâu sắc mới mẻ về
lẽ sống: khi được ánh sáng của lí tưởng soi rọi, Tố Hữu đã có những nhận thức
mới về lẽ sống và có những chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của mình. Nhà thơ
khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa cái tôi cá nhân
và cái ta chung của cộng đồng. Không còn là con người “Vẩn vơ theo mãi vòng
quanh quẩn/Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời”, tác giả đã tự buộc lòng mình
với mọi người để sống chan hoà với trăm nơi, để có được sự đồng cảm chân thành,
sâu sắc. Từ đó, nhà thơ đã hoà trong một khối đoàn kết, gắn bó với mọi người.
Đó là tuyên ngôn sống và sáng tác nghệ thuật của một con người tự nguyện gắn bó
cả cuộc đời mình với quần chúng lao khổ, phấn đấu vì cuộc sống hạnh phúc của
đồng bào, vì tương lai tươi sáng của đất nước.
- Từ ấy in dấu ấn rõ nét vẻ đẹp sáng tạo độc
đáo của thơ Tố Hữu:
+ Tố Hữu đã dùng những hình ảnh nắng
hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá để chỉ lí tưởng. Những động từ bừng, chói,
những cụm từ đậm hương, rộn tiếng chim đã được nhà thơ sử dụng sáng tạo nhằm
thể hiện niềm vui sướng tột cùng khi nhà thơ được đứng trong hàng ngũ của những
người cộng sản,
+ Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hoá, điệp
từ, điệp ngữ được tác giả dùng trong bài thơ vừa có tác dụng tạo nên những hình
ảnh thơ trong sáng, gần gũi, có sức mạnh lôi cuốn sự chú ý của người đọc, người
nghe lại vừa thể hiện được tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình đang say mê
lí tưởng. Đặc biệt, trong bài thơ, cách sử dụng kết hợp các điệp từ, điệp ngữ
đã tạo được một nhịp điệu vui tươi, luyến láy, giàu sức biểu cảm…
=> Từ ấy được coi là thi phẩm có ý nghĩa mở đầu, định hướng cho toàn
bộ quá trình sáng tác của Tố Hữu. Những sáng tạo độc đáo của thi phẩm tạo nên
nét riêng cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình - chính trị, giàu tính dân tộc.
b. Bài thơ
Tây Tiến của Quang Dũng
- Tây Tiến “xuất phát từ thực tại,
từ đời sống”:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu
năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và
đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ
Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của đoàn binh Tây Tiến. Cuối năm 1948
ông chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là
Tây Tiến. Tây Tiến là cuộc sống, là tấc lòng, là con người rất thật của Quang
Dũng. Bài thơ được khơi nguồn từ những cảm xúc mãnh liệt và chân thực của nhà
thơ khi nhớ về đồng đội và mảnh đất, con người Tây Bắc một thời gắn bó. Quang
Dũng từng tâm sự: Hồi ấy, tấm lòng, cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy.
- Tây Tiến thể hiện vẻ đẹp tâm hồn,
trí tuệ của Quang Dũng:
+ Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa: nhạy cảm
trước thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ dữ dội mà huyền ảo, thơ mộng; đằm
thắm tình người; những khao khát, mộng mơ mãnh liệt.
+ Vẻ đẹp ý chí, lí tưởng: dù sống và
chiến đấu trong điều kiện khó khăn, khắc nghiệt nhưng Quang Dũng cũng như đoàn
binh Tây Tiến vẫn hiên ngang vượt lên, coi thường gian khổ, sẵn sàng hiến dâng
cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Vẻ đẹp của họ vừa mang dáng dấp của các tráng
sĩ thuở trước vừa mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống
Pháp.
- Tây Tiến in dấu ấn rõ nét vẻ đẹp
sáng tạo độc đáo của thơ Quang Dũng:
+ Khi viết về những người lính Tây
Tiến, Quang Dũng không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Chất lãng
mạn bi tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ
Quang Dũng.
+ Thể thơ bảy tiếng chắc khỏe mang
giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành; sử dụng phong phú các biện pháp tu
từ; kết hợp hài hòa chất họa, chất nhạc trong thơ; bút pháp hiện thực kết hợp
với cảm hứng lãng mạn; ngôn ngữ vừa giản dị, trong sáng vừa trang trọng, tài
hoa; giọng điệu linh hoạt khi tha thiết, bồi hồi, khi hồn nhiên, vui tươi, lúc
lại trở nên trang trọng rồi lắng xuống bi tráng…
=> Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu
nhất cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung nét đặc sắc phong cách nghệ
thuật của nhà thơ: hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Với bài
thơ Tây Tiến “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo…, ông không có điểm gì chung với
những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng
chiến” (Vũ Quần Phương).
4. Bình luận
– Nhận định của Xuân Diệu không chỉ
đúng trong lĩnh vực sáng tạo thơ ca mà còn đặt ra yêu cầu cho mọi sáng tạo nghệ
thuật nói chung. Từ ấy (Tố Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng) được ra đời ở những
thời điểm khác nhau, bởi hai phong cách nghệ thuật khác nhau nhưng đều là minh
chứng rõ nét cho ý kiến của Xuân Diệu.
- Bài học cho người nghệ sĩ sáng tạo
và người tiếp nhận:
+ Đối với người sáng tạo: trau dồi
vốn sống, sống sâu sắc với thế giới nội tâm của mình, lao động công phu, nỗ lực
không ngừng trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
+ Đối với người đọc: tiếp nhận tác
phẩm bằng toàn bộ thế giới tinh thần của mình trên tinh thần đối thoại, đồng
sáng tạo với nhà thơ để thấy được những đóng góp của nhà thơ cả về nội dung, tư
tưởng và nghệ thuật.
Đề số 4: “Những bài thơ chân chính bao giờ cũng xâm
chiếm tâm hồn người đọc trước hết bằng âm điệu. Cảm xúc của hồn thơ thường hiện
ra thành những rung động. Những rung động tâm hồn hoá thân rất nhiều thành âm
điệu thơ. Nghe được âm điệu thơ là đã phần nào nắm được cái hồn của bài thơ”.
(Chu Văn Sơn, Thơ - điệu hồn và cấu trúc - NXB Giáo dục Việt Nam, 2007)
Anh
(chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua thi phẩm Tràng giang của Huy Cận (Ngữ văn 11, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam
2015) và Việt Bắc của Tố Hữu (Ngữ văn
12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam 2015), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
1.
Giải thích
- Thơ chân chính (thơ hay), là những bài thơ
thể hiện cách nhìn, cách cảm xúc mới mẻ độc đáo về thiên nhiên tạo vật, về xã
hội, về tâm hồn con người...; bộc lộ những tâm sự, nỗi niềm của người viết,
mang lại cho người đọc những xúc cảm thẩm mĩ lành mạnh... Thơ chính là tình
đời, tình người ngân lên trong những âm vang ngôn ngữ, kết cấu, hình ảnh, giọng
điệu, nhịp điệu…
- Thơ hay, “thơ chân chính” đến với người đọc
trước hết bằng “âm điệu”: là sức vang, sức tan toả của bài thơ thấm vào hồn
người đọc, chinh phục trực giác của người đọc, tạo sự ám ảnh, có “ma lực” cuốn
hút người đọc để có những khám phá, có cách “giải mã” phù hợp, để được đắm mình
trong thế giới thơ.
- Để có âm điệu bài thơ “xâm chiếm tâm hồn
người đọc”, nhà thơ phải có những “rung động tâm hồn” (cảm xúc); những rung
động tâm hồn ấy đã “hoá thân rất nhiều thành âm điệu thơ”. Nhà thơ tái hiện
cuộc sống thông qua những rung động, những xúc cảm mãnh liệt. Thiếu tình cảm
mãnh liệt và sâu sắc thì sẽ không có thơ. Độ chín của cảm xúc nhà thơ làm nên
chiều sâu của sự thể hiện cuộc sống và lay động tâm hồn người đọc. Cảm xúc
trong thơ là tình cảm được ý thức, được lắng lọc qua những xúc cảm thẩm mĩ của
nhà thơ.
- Đọc thơ, người đọc phải “nghe” được những
rung động tâm hồn của người làm thơ, như thế mới phần nào nắm được cái hồn của
bài thơ.
2.
Phân tích bài thơ Tràng giang (Huy Cận), Việt Bắc (Tố Hữu) để “nghe được âm
điệu thơ”.
* Bài thơ Tràng giang (Huy Cận)
- Giới thiệu khái quát về Huy Cận, bài thơ
Tràng giang.
- “Âm điệu” qua nội dung: Bài thơ mang một âm
điệu buồn mênh mang sâu lắng, ngấm sâu trong lòng tạo vật và tâm hồn thi nhân,
bộc lộ nỗi buồn tủi cô đơn bơ vơ của con người cá nhân Huy Cận với nhiều cung
bậc: buồn, sầu, đìu hiu, lặng lẽ, cô liêu, bơ vơ… vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Tràng giang hiện lên như một bức tranh tạo
vật vừa mênh mông, vô biên vừa hoang sơ, hiu quạnh. Giữa không gian đó thi nhân
hiện lên: như một lữ thứ lạc loài đơn độc thấm thía trạng thái bơ vơ, cô độc,
sầu tủi của kiếp người; nỗi cô đơn của con người trước tạo vật bao la hùng vĩ
mà thiếu vắng tình người, thiếu quê hương ấm áp, thiếu sự đồng điệu giao cảm gắn
bó; niềm khát khao hơi ấm tình đời tình người đã chuyển thành niềm rung động
của một tấm lòng quê.
+ Về sự vận động của hình tượng thơ: có hai
dòng sông chảy dọc suốt bài thơ, một dòng sông dềnh lên mênh mang sóng nước và
một dòng sông tâm hồn thấp thoáng ẩn hiện qua các khổ thơ.
- “Âm điệu” qua các yếu tố hình thức nghệ
thuật: nỗi buồn triền miên trong tâm hồn Huy Cận đã được thể hiện qua âm hưởng
của bài thơ, bằng âm vang chữ nghĩa, hình ảnh thơ, cấu trúc câu thơ,…
- Cội nguồn của nỗi cô đơn sầu tủi tạo nên âm
điệu buồn của thi phẩm vừa mang dấu ấn của truyền thống nghệ thuật thi ca
phương Đông, vừa có căn nguyên thời đại và mang đậm dấu ấn cái tôi cá nhân Huy
Cận
* Bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu):
- Giới thiệu khái quát về Tố Hữu, bài thơ Việt
Bắc.
- “Âm điệu” qua nội dung: Việt Bắc là bản anh
hùng ca tổng kết một giai đoạn lịch sử gian lao mà hào hùng của dân tộc với
những mảng hoài niệm chân thực, rõ nét về con người và quê hương cách mạng. Âm
điệu bài thơ được tạo nên từ nhịp điệu của cảm xúc, tâm trạng của thi nhân. Cảm
xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ thương lưu luyến.
+ Vẻ
đẹp thiên nhiên Việt Bắc thanh bình, thơ mộng nhưng cũng rất đỗi oai hùng trong
những ngày kháng chiến; Con người Việt Bắc sống gian lao mà nghĩa tình, sẵn
sàng chia ngọt sẻ bùi, kề vai sát cánh cùng Cách mạng.
+ Tái hiện kỉ niệm về Việt Bắc là để: bày tỏ
lòng biết ơn sâu nặng của cán bộ cách mạng với đồng bào và quê hương Việt Bắc;
là lời tự vấn của tác giả với lòng mình về nghĩa tình thủy chung đối với đất và
người Việt Bắc; nhắn gửi bài học sâu sắc về đạo lý dân tộc “uống nước nhớ
nguồn”, “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”, quá khứ lịch sử luôn là một phần của hiện
tại hôm nay.
- “Âm điệu” qua các yếu tố hình thức nghệ
thuật: sử dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống; kết cấu của bài thơ theo
lối đối đáp, hô ứng kết hợp với cặp đại từ “mình-ta” thường gặp trong ca dao
dân; nhịp thơ có sự thay đổi phù hợp với cảm xúc khi chậm rãi, tha thiết, lắng
sâu trong hoài niệm, khi nhanh, mạnh, hối hả gấp gáp khi tái hiện những tháng
ngày kháng chiến hào hùng và niềm vui chiến thắng; nghệ thuật dùng từ láy, điệp
từ ngữ, điệp cấu trúc cú pháp, nghệ thuật tiểu đối…
- Cội nguồn của nỗi nhớ tạo nên âm điệu tha
thiết, ngọt ngào… của thi phẩm vừa mang dấu ấn của nghệ thuật truyền thống
vừa mang đậm dấu ấn phong cách thơ Tố
Hữu.
Lưu ý: Mỗi luận điểm học sinh phải lựa chọn
dẫn chứng để làm sáng tỏ.
4.
Bình luận
- Ý kiến của nhà phê bình Chu Văn Sơn đã khái
quát đặc trưng nổi bật của thơ là tính trữ tình, là những rung động tâm hồn,
xúc cảm thẩm mĩ của nhà thơ được mã hoá bằng những sáng tạo ngôn từ tạo nên âm
điệu của bài thơ. Âm điệu thơ chính là cái thần, là linh hồn, làm nên giá trị,
sức hấp dẫn, sức sống của thi phẩm. Đồng thời tác giả cũng đề cập đến vấn đề
tiếp nhận thơ, người đọc “nghe” thơ, hiểu những xúc cảm của nhà thơ bằng chính
những rung cảm tâm hồn mình.
- Đối với người làm thơ, trước hết phải có
“rung động tâm hồn”, có cảm xúc nhưng đồng thời phải biết “mã hoá” cảm xúc,
những rung động tâm hồn ấy bằng những sáng tạo nghệ thuật để bài thơ có “âm
điệu” riêng, có sức hấp dẫn riêng đối với người đọc.
- Đối với người đọc, đến với thi phẩm, trước
tiên bằng trực cảm, lắng nghe những rung động trong tâm hồn mình. Những rung
động đó phải bắt nguồn từ việc “cảm” “âm điệu” của bài thơ, từ những yếu tố (đặc
biệt là những yếu tố độc đáo) thuộc về thi phẩm để đồng cảm với những rung động
tâm hồn của tác giả và “giải mã” thi phẩm. Người đọc cần có những “chìa khóa”
để mở cánh cửa thế giới nghệ thuật của các tác phẩm thơ.
Đề số 5:
Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu họa”,
“Thi trung hữu nhạc”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên
như thế nào? Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt
Bắc (Tố Hữu), hãy làm sáng tỏ.
1. Giải thích
*
Cắt nghĩa ý kiến:
-
Thi: thơ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện
cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu
hình ảnh và gợi cảm.
-
Thi trung hữu họa: Trong thơ có hoạ (có tranh, có cảnh). Thi trung hữu nhạc:
Trong thơ có nhạc.
=>
Ý kiến trên của người xưa nói đến đặc trưng của thơ trữ tình là giàu hình ảnh
và nhạc điệu. Ý kiến của cổ nhân hoàn toàn đúng đắn và xác đáng.
*
Lí giải ý kiến:
-
Thơ - nhạc - hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, đặc
biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu
hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc dùng giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như các
tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm
riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận thức không trực tiếp
bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào,
mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ
thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.
-
Thi trung hữu họa bởi vì: Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, thơ ca cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ
giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu
tượng (hình ảnh có ngụ ý), hình tượng (hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm)
nổi bật như thơ ca. Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội
tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm
tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì còn mang màu
sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.
-
Thi trung hữu nhạc bởi vì: Thơ ca là sự biểu hiện trực tiếp cảm xúc, tình cảm
của con người. Cảm xúc biểu lộ mạnh mẽ ở thanh điệu, nhịp điệu của lời nói
(ngôn từ). Tính nhạc là đặc thù cơ bản của việc phô diễn tình cảm của thơ ca.
Âm thanh và nhịp điệu làm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều từ ngữ
không thể nói hết. Nhạc điệu trong thơ thể hiện nhịp vận động của đời sống, của
nhịp đập trái tim, bước đi của tình cảm con người.
2. Chứng minh qua hai bài thơ Tây
Tiến và Việt Bắc
a. Thi
trung hữu họa:
-
Với trí tưởng tượng bay bổng, phong phú, kết hợp bút pháp miêu tả khái quát và
cận cảnh, thủ pháp đối lập tương phản... Bài thơ Tây Tiến đã vẽ lên trước mắt
người đọc:
+
Bức tranh chân thực về khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở hùng vĩ nhưng vô
cùng trữ tình thơ mộng.
+
Bức chân dung về người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
-
Bằng lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ,
tượng trưng, ước lệ…) được sử dụng thích hợp... Bài thơ Việt Bắc đã tái hiện
thành công:
+
Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc.
+
Bức tranh về cuộc sống con người trong kháng chiến, bức tranh Việt Bắc ra quân
hào hùng.
b.
Thi trung hữu nhạc:
-
Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tính
nhạc trong Tây Tiến thể hiện ở:
+
Thể thơ thất ngôn mang âm hưởng trầm hùng phù hợp với việc biểu đạt nội dung.
+
Phối hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng trắc, sự hiệp vần: ơi, biện pháp điệp
từ: nhớ, ngàn thước…
+
Sử dụng thành công hệ thống từ láy.
+
Nhạc điệu của bài thơ còn được tạo nên từ nỗi nhớ tha thiết, tình yêu sâu đậm
của nhà thơ với mảnh đất Tây Bắc, với binh đoàn Tây Tiến, với quê hương, đất
nước. Đó là nhạc điệu tâm hồn của thi nhân.
-
Tính nhạc trong Việt Bắc thể hiện ở:
+
Thể thơ lục bát: Nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hóa sáng
tạo không đơn điệu.
+
Sử dụng cặp đại từ: mình - ta.
+
Nghệ thuật đối: Được sử dụng với tần số cao, biểu đạt xúc động nỗi lòng sâu kín
của kẻ đi - người ở đồng thời tạo ra sự cân xứng về cấu trúc vẻ đẹp nhịp nhàng
của ngôn từ. Tất cả tạo nên nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga.
Việt Bắc ru người trong nhạc.
+
Biện pháp điệp: điệp từ: nhớ, có nhớ; điệp cấu trúc: mình đi - mình về; câu hỏi
tu từ… tạo nên nhịp ru cho bài thơ, diễn tả thành công nỗi lòng kẻ đi - người
ở.
+
Cách gieo vần và sử dụng từ láy cũng góp phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ.
+
Việt Bắc có giọng điệu tâm tình, tự nhiên, đằm thắm, là tiếng nói của tình
thương mến ngọt ngào, là khúc tình ca và bản hùng ca về kháng chiến và con
người kháng chiến... Thơ Tố Hữu phong phú nhạc điệu, một thứ nhạc giàu có tự
bên trong của tâm hồn hoà với nhạc điệu lôi cuốn của đời sống.
3. Bình luận
-
Khẳng định câu nói của cổ nhân là hoàn toàn đúng với thơ ca và được minh chứng
rõ qua hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc.
-
Hai bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của hai nhà thơ trong
việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật.
-
Bài học cho người nghệ sĩ và người tiếp nhận.
Đề số 6: Nhà văn Nhữ Bá Sĩ cho rằng: Thơ là để
nói chí, nhưng biểu hiện ở nơi tình. Anh/Chị hiểu
ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về hai bài thơ Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi) và Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm), hãy làm sáng
tỏ.
1. Giải thích
* Cắt nghĩa
ý kiến:
- Chí: ý chí, khát vọng, mục tiêu,
quan điểm, lí tưởng… con người muốn hướng tới. Thơ là để nói chí: Khẳng định
mục đích của thơ ca là để bày tỏ ý chí, khát vọng, lí tưởng, quan điểm sống…
của nhà thơ trước cuộc đời.
- Tình: tình cảm, cảm xúc, tấm lòng
của người viết. Biểu hiện ở nơi tình: Thơ ca nói chí, tỏ lòng nhưng không thể
hiện một cách khô khan mà thông qua con đường tình cảm, làm lay động cảm xúc,
trái tim người đọc.
=> Nhận định của Nhữ Bá Sĩ khẳng
định: nói chí là mục đích của thơ ca nhưng biểu hiện ở nơi tình là đặc trưng,
là cội nguồn, là gốc của thể loại thơ. * Lí giải ý kiến:
Ý kiến của Nhữ Bá Sĩ đúng đắn và xác đáng
vì:
- Xuất phát từ quan điểm về mục đích sáng tác:
quan điểm thời trung đại là thi dĩ ngôn chí - dùng thơ để nói chí, tỏ lòng, cốt
làm nổi bật cái hùng tâm tráng trí của con người.
- Xuất phát từ chức năng của văn
học: văn học có nhiều chức năng trong đó phải kể đến chức năng giáo dục. Gắn
với chức năng này, thơ văn suy cho cùng là phương tiện để nói chí, chở đạo nhằm
giáo dục người đọc có lí tưởng sống, mục đích sống, quan điểm sống… lành mạnh,
tiến bộ.
- Xuất phát từ khát vọng của người
viết: nhà thơ bao giờ cũng muốn gửi gắm vào trong tác phẩm những tư tưởng,
triết lí, lí tưởng, cảm xúc… của mình và truyền đến cho người đọc để được chia
sẻ, thấu hiểu.
- Xuất phát từ đặc trưng của thơ: là
tiếng nói của tình cảm mãnh liệt. Vì thế, thơ ca nói chí, chở đạo theo con
đường riêng, đó là cách thể hiện giàu cảm xúc với những rung động tình cảm mãnh
liệt (khác văn xuôi thiên về kể, tả sự việc…).
- Xuất phát từ thực tiễn: trong sáng
tác thơ ca từ xưa tới nay, những tác phẩm có giá trị đều là những tác phẩm có
tư tưởng sâu sắc được tạo nên từ trái tim giàu cảm xúc của người cầm bút.
2. Chứng minh qua Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi) và Nhàn (Nguyễn
Bỉnh Khiêm)
* Chứng minh
qua Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Thơ là để nói chí: Bài thơ thể
hiện khát vọng, lí tưởng của Nguyễn Trãi là làm sao cho muôn dân được ấm no,
hạnh phúc (Dân giàu đủ khắp đòi phương).
- Biểu hiện ở nơi tình: Khát vọng ấy
của Nguyễn Trãi không nói một cách khô khan mà được thể hiện gián tiếp thông
qua tình yêu với thiên nhiên, cuộc sống, con người, cùng mong ước của ông:
+ Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp,
đầy âm thanh, màu sắc (Hòe lục đùn đùn tán rợp giương/Thạch lựu hiên còn phun
thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn mùi hương…) cùng bức tranh sinh hoạt đời sống sôi
động (Lao xao chợ cá làng ngư phủ) đã gián tiếp cho thấy tình cảm thiết tha của
Nguyễn Trãi về một cuộc sống no đủ cho nhân dân, yên bình cho đất nước.
+ Ước mong tha thiết có chiếc đàn
của vua Ngu Thuấn để gảy khúc Nam phong cho mưa thuận, gió hòa, nhân dân làm ăn
no đủ, khắp mọi người, khắp mọi nơi.
- Nghệ thuật thể hiện chí và tình:
ngôn ngữ trong sáng, giản dị; hình ảnh thơ sinh động; giọng điệu giàu cảm xúc;
sự cách tân ở câu lục ngôn xen lẫn câu thất ngôn tạo nên sự dồn nén cảm xúc của
bài thơ,… tất cả đã góp phần thể hiện cái chí của tác giả một cách rất tình
khiến người đọc xúc động.
* Chứng minh qua Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Thơ là để nói chí: Bài thơ thể
hiện quan niệm sống, triết lí sống nhàn, lánh đục về trong của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Đây là cái chí của những nhà nho sống trong thời loạn, họ coi trọng nhân
cách, hành đạo bằng việc giữ gìn lối sống thanh cao, không chấp nhận con đường
công danh, phú quý mà giành giật, hãm hại nhau, hay áp bức, bóc lột nhân dân.
- Biểu hiện ở nơi tình: Quan niệm
sống, triết lí sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được thể hiện đầy cảm xúc qua
sự an nhiên, phong cách thư thái khi hòa hợp với tự nhiên, cùng thái độ vượt
lên mọi cám dỗ danh lợi của một nhà nho ưu thời mẫn thế:
+ Sự ung dung, nhàn tản khi trở về
với cuộc sống thuần hậu, nguyên thủy (Một mai, một cuốc, một cần câu/Thơ thẩn
dầu ai vui thú nào).
+ Thái độ xa lánh nơi phồn hoa, cửa
quyền (Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/Người khôn, người đến chốn lao xao).
+ An nhiên hòa hợp với tự nhiên (Thu
ăn măng trúc, đông ăn giá/Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao).
+ Xem công danh, phú quý tựa như
giấc chiêm bao (Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống/Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao).
- Nghệ thuật thể hiện chí và tình:
Thể thơ thất ngôn bát cú; ngôn ngữ trong sáng; hình ảnh giản dị, gần gũi với
cuộc sống hàng ngày; cách ngắt nhịp độc đáo; sử dụng điển tích chọn lọc; giọng
thơ nhẹ nhàng, thâm trầm, sâu sắc; chất trữ tình kết hợp chất triết lí nhuần
nhuyễn... đã khiến cái chí của tác giả được thể hiện rất tình, có khả năng tác
động sâu sắc đến tâm hồn người đọc.
3. Bình luận
- Ý kiến đã đề cập đến mối quan hệ
mật thiết giữa chí và tình trong thơ: quan hệ tác động qua lại, bổ sung hỗ trợ
cho nhau.
+ Cái chí nâng tầm vóc, vai trò của
thơ ca trong đời sống.
+ Cái tình làm cho cái chí tỏa sáng,
đọng lại trong trái tim người đọc.
- Hai bài thơ Cảnh ngày hè và Nhàn
được viết nên từ chí và tình của những nhà nho có tư tưởng tiến bộ là minh
chứng tiêu biểu cho quan điểm của Nhữ Bá Sĩ. Cảnh ngày hè và Nhàn cũng như tên
tuổi của hai tác giả luôn bất tử với thời gian.
- Ý kiến là bài học ý nghĩa:
+ Với người sáng tác: tác phẩm văn
học chỉ đọng lại nơi người đọc khi nó chứa đựng những tư tưởng, triêt lí sống
đáng quý cùng một tình cảm thiết tha, mãnh liệt của người sáng tạo; chí và tình
cần được thể hiện bằng những phương tiện nghệ thuật phù hợp.
+ Với người tiếp nhận: cần thông qua
các phương tiện nghệ thuật của tác phẩm và bằng tấm lòng đồng cảm, tri âm với
người viết để hiểu được giá trị tư tưởng của tác phẩm; trân trọng tài năng của
tác giả; bồi dưỡng tâm hồn vươn đến Chân - Thiện - Mĩ.
- Ý kiến không chỉ đúng với thơ mà
còn đúng với các thể loại văn học khác (khuyến khích).