SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
‘‘Hướng
dẫn cách làm bài văn nghị luận cho học sinh
ở trường Trung học cơ
sở VĂN BÌNH”
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
I. Cơ sở
lý luận.
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì yêu cầu đổi mới giáo dục hiện
nay đang là một vấn đề vô cùng bức thiết. Bởi giáo dục đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho con người. Chính vì thế mà tổ chức
khoa học giáo dục thế giới UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để
biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng
nghị luận xã hội vào chương trình Ngữ văn bậc Trung học cơ sở hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội
hiện nay.
Ngữ văn
là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp học sinh có
phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động
giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục
học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát
triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái,
vị tha,...
Trong đó mảng nghị luận xã hội luôn lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội,
chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu
của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận
cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung này thường
là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính
thời sự cao. Đối với học sinh Trung học cơ sở, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho các em những suy nghĩ và
nhận thức đúng đắn về cuộc sống; đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho các em
về những vấn đề có tính hai mặt của đời sống xã hội đang tác động trực tiếp đến
thế hệ trẻ. Ở kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh qua những trải nghiệm
của bản thân, trình bày những hiểu biết, ý kiến, quan niệm, cách đánh giá, thái
độ...của mình về các vấn đề xã hội, từ đó rút ra được bài học nhận thức và hành
động cho bản thân.
Vì thế,
để trang bị cho các em có kiến thức, hiểu biết về cuộc sống thì việc làm trước
tiên là rèn luyện ngay cho các em qua kiến thức từ môn học. Trong đó kỹ năng viết
bài văn nghị luận xã hội phải được tiến hành thường xuyên và liên tục để các em
đạt kết quả cao trong các kì thi.
II. Phương pháp tiếp cận tạo ra
sáng kiến.
1.
Đọc tài liệu:
Tham Khảo tài liệu
chuyên môn có liên quan
+ Sách giáo khoa kỳ 2 lớp 7, sách
giáo khoa lớp 9, sách giáo viên, sách bài tập, kiến thức trọng tâm ôn thi học sinh
năng khiếu 7, ôn thi 9 vào 10, vở bài tập. Trong đó đặc biệt chú ý đến các
tiết học nói về nghị luận chứng minh, nghị luận giải
thích, nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống và
nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo
lí và cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống hay nghị luận về
một vấn đề tư tưởng đạo lí lớp 9
+ Một số vấn đề
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực theo chương trình giáo dục phổ
thông 2018.
+ Bài tập nâng
cao và một số chuyên đề Ngữ văn nghị luận 7. Tham khảo
một số đề văn nghị luận lớp 9
+ Chọn lọc kiến thức phù hợp với học
sinh tại đơn vị công tác, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp để tìm
ra giải pháp đúng đắn vận dụng vào quá trình giảng dạy.
2. Điều tra,
thăm dò ý kiến:
Trong
quá trình giảng dạy giáo viên trao đổi với học sinh để tìm ra các
nguyên nhân học sinh chưa có phương pháp làm bài văn nghị luận xã hội. Xem học
sinh khó khăn ở khâu nào, phần nào học sinh chưa biết cách trình bày để có
biện pháp xử lí
kịp thời.
Trao đổi
với giáo viên ở tổ chuyên môn trong nhà trường cùng bàn biện pháp nâng cao chất
lượng, tìm hiểu nguyên nhân học sinh chưa có hứng thú học tập môn Ngữ văn, những
hạn chế khi viết bài văn nghị luận xã hội.
III. Mục tiêu.
Tôi tiến hành thực hiện giải pháp này này với các mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất: Khắc phục những hạn chế mà các em mắc phải khi viết bài văn nghị
luận.
Thứ hai: Giúp học sinh hình thành được kĩ năng cơ bản để làm tốt một bài
văn nghị luận chứng minh, giải thích trong các bài kiểm tra kỳ II lớp 7, hướng tới các bài thi chuyển cấp lớp 9 đạt kết quả cao nhất.
Thứ ba: Thông qua hướng dẫn cách làm bài nghị luận xã hội giúp học sinh lớp
7 nâng cao khả năng trình bày suy nghĩ của mình; cung cấp cho các em vốn
tri thức phong phú về các vấn đề nghị luận xã hội để các em nâng cao nhận thức và kĩ năng sống, sống tốt hơn, đẹp hơn, từng
bước hoàn thiện nhân cách của mình.
Thứ tư: Chia sẻ kinh nghiệm cho đồng nghiệp tại các trường trung học cơ sở để vận dụng giải pháp này vào quá trình
giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho các nhà trường.
CHƯƠNG II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Đối tượng mà tôi lựa chọn để áp dụng là học
sinh lớp 9 ở trường THCS Mường Đăng. Vận dụng cho học sinh thực hành phần văn
nghị luận ở chương trình Ngữ văn 9 ở cả hai dạng nghị luận văn học và nghị luận
xã hội.
I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA
SÁNG KIẾN
Trong chương trình giáo dục phổ thông
nói chung và ở cấp trung học cơ sở nói riêng ta thấy nội dung các môn học rất đa
dạng và phong phú. Mỗi môn học, mỗi một
lĩnh vực đều có một sứ mệnh riêng của nó. Đặc biệt môn Ngữ văn
luôn dạy các em học sinh biết yêu quý dân tộc mình, đất nước mình
vì đó là nguồn cội của chính mỗi con người dân Việt. Ta vẫn thường
nói “ Văn học là nhân học” học văn là học làm người, học văn giúp cho con người
ngày một hoàn thiện nhân cách. Hơn thế nữa văn học ngày nay còn tác động trưc
tiếp đến tâm tư tình cảm của con người nó làm cho cuộc sống của chúng ta có ý
nghĩa hơn, lạc quan, yêu đời hơn. Nó đi sâu vào đời sống tình cảm của con
người, làm thế giới tình cảm phong phú hơn, sâu sắc hơn, nhạy cảm hơn
cho tâm hồn, đặc biệt giúp hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục
quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Chính
vì vậy, dạy học văn là quá trình đào sâu, tìm tòi để cảm nhận cái hay, cái đẹp
trong tác phẩm văn chương. Bộ môn Ngữ văn lại có đặc thù riêng bởi bằng nghệ
thuật ngôn từ sinh động nó cung cấp cho người đọc những kiến thức về cuộc sống,
những điều ẩn sâu trong tâm hồn con người. Vì thế Văn học có vai trò rất quan
trọng đối với mỗi con người đặc biệt là học sinh. Tuy nhiên, điều làm cho hầu hết những giáo viên
đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay đang phải
trăn trở là hiện tượng học sinh không hứng thú đón nhận bộ môn này như những
môn học khác thậm chí có thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với giờ học Ngữ văn. Đặc
biệt là các giờ học phân môn Tập làm văn, các tiết học tìm hiểu về kiểu bài nghị
luận trong chương trình Ngữ văn lớp 7.
Trong đó kiểu văn nghị luận xã hội đòi hỏi các em có sự hiểu biết sâu rộng
các sự việc hiện tượng đời sống hay các tư tưởng đạo lí. Đây là lượng kiến thức
đang được chú trọng trong các nhà trường. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu
chí đánh giá đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh
giỏi, hoặc thi vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp trung học phổ thông rồi đến
kì thi Đại học. Chính vì thế, trong quá trình giảng dạy giáo viên phải rèn cho
học sinh kĩ năng viết bài văn nghị luận nói chung và kiểu bài nghị luận chứng
minh, giải thích, nghị luân xã hội nói riêng giúp học sinh không chỉ
hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà còn cung cấp tri thức vô
cùng phong phú về những vấn đề xã hội, những phạm trù tư tưởng, đạo đức, lối sống....
Xuất phát từ quan điểm trên, cũng
như kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy đối với bộ môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở Long Cốc, tôi mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp
‘‘Hướng
dẫn cách làm bài văn nghị luận xã hội cho học sinh ở trường trung học cơ sở Long Cốc” mà bản thân tôi
đã áp dụng trong nhiều năm qua và đang áp dụng trong năm học 2021- 2022.
1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn
đề.
Qua những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn
Ngữ văn ở trường trung học cơ sở Long Cốc, tôi nhận thấy việc viết
văn nghị luận của các em học sinh còn rất hời hợt, chưa định hình rõ cách viết
một bài văn nghị luận chứng minh, giải thích và kiểu bài nghị
luận xã hội nói riêng. Bài viết còn chưa đảm bảo cả về hình thức lẫn nội dung
cũng như cách triển khai luận điểm.
Trước tình hình đó, đầu năm học 2021-2022
tôi đã tiến hành phát phiếu thăm dò cho 55 em học sinh khối7. Kết quả thu được
qua phiếu thăm dò:
Thăm dò ý kiến
Tổng số học sinh
|
Hứng thú học
môn Ngữ văn
|
Khả năng biết cách
viết bài văn
|
55
|
Có
|
Không
|
Có
|
Không
|
30/55=
54,5 %
|
25/55 = 45,5%
|
30/55= 54,5%
|
25/55=
45,5%
|
Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy,
tôi phải tìm ra các giải pháp để giúp học sinh có định hướng làm bài văn nghị
luận chứng minh, giải thích, nghị luận xã hội cụ thể, rõ ràng.
Việc này được tiến hành thường xuyên và liên tục ngay từ kỹ năng phân tích yêu
cầu của đề, kỹ năng triển khai luận điểm, kỹ năng dựng đoạn, sử dụng dẫn chứng
lập luận và liên kết câu, liên kết đoạn văn là những khâu quan trọng để hình
thành rõ kỹ năng lập luận trong bài văn. Từ đó giúp học sinh sẽ có kĩ năng viết
được một đoạn văn hay, một bài văn hoàn chỉnh.
2. Tồn tại, hạn chế.
Từ kết quả phiếu thăm dò và ý kiến thu
được, tôi nhận thấy thực trạng về kĩ năng viết bài văn nghị luận xã hội của các
em còn nhiều hạn chế, điều đó được thể hiện ở một số nội dung cụ thể như sau:
- Thứ nhất:
Chưa biết cách xác định vấn đề cần nghị luận trước yêu cầu của đề bài.
- Thứ hai: Chưa biết cách triển khai luận điểm thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
- Thứ ba: Các đoạn văn trong phần mở bài, thân bài, kết bài lập luận chưa
chặt chẽ còn lúng túng trong cách diễn đạt, dẫn chứng chưa phong phú, chưa tiêu
biểu.
- Thứ tư: Các
câu văn, đoạn văn chưa có sự liên kết về mặt nội dung và hình thức.
Từ thực trạng trên tôi
tiến hành khảo sát học sinh lớp 7 trước
khi áp dụng giải pháp và thu được kết quả như sau:
Điểm
Tổng số
|
Giỏi
|
Khá
|
Trung bình
|
Yếu - Kém
|
55
|
Tổng số
|
Tỷ
lệ
|
Tổng
số
|
Tỷ
lệ
|
Tổng
số
|
Tỷ
lệ
|
Tổng
số
|
Tỷ lệ
|
1
|
2,5%
|
16
|
29%
|
23
|
41,5%
|
15
|
27%
|
Đứng trước yêu cầu
đó, một yêu cầu đặt ra cho thầy cô dạy bộ môn Ngữ
Văn là phải tìm ra các hướng để khắc phục những hạn chế
cho các em học sinh ngay từ những việc làm đơn giản nhất như các kỹ năng để khắc
phục hạn chế đến viết được một bài văn hay có sức thuyết phục đối với người đọc.
3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế.
Qua quá
trình tìm hiểu tôi nhận thấy rằng những tồn tại hạn chế xuất phát từ cả hai
phía:
Về phía
giáo viên: Chưa gây được hứng thú trong các giờ học tập làm văn cho các em học
sinh khiến cho các giờ học trở lên khô khan, nhàm chán; chưa có giải pháp phù hợp
để khắc phục những hạn chế mà các em gặp phải trong khi viết bài.
Về phía
học sinh: Do học sinh có một đặc tính tâm lý là nhanh nhớ nhưng chóng quên. Có
khi ngay tại lớp các em nhớ cách làm bài nhưng sau vài ngày kiểm tra lại các em
đã quên gần hết (nếu các em không được ôn luyện thường xuyên); do học sinh chưa
nắm vững các phương pháp, chưa vận dụng kỹ năng viết bài một cách thành thạo,
linh hoạt, sáng tạo vào từng bài tập cụ thể.
4. Phân tích đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra
sáng kiến
Để khắc phục thực trạng
mà học sinh trường trung học cơ sở Long Cốc đang gặp phải như trên, tôi
mạnh dạn thực hiện một số giải pháp để giúp các em biết xác định vấn đề cần nghị
luận trước yêu cầu của đề bài; biết xây dựng, triển khai luận điểm, hình thành
các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; biết dùng các phép lập luận, các phép liên
kết câu và liên kết đoạn văn. Từ đó giúp các em có định hướng viết đúng một bài
nghị luận xã hội dẫn đến viết hay để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Đồng
thời trong quá trình giảng dạy tôi cũng vận dụng, lựa chọn giải pháp này vào việc
ôn bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh năng khiếu môn Ngữ văn lớp 7.
Trước hết phải cho học sinh thấy được nghị luận xã hội gồm hai kiểu bài đó là nghị luận
về một sự việc hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý. Ở
cả hai kiểu bài này, người viết phải dùng những lý lẽ của mình để bàn bạc thuyết
phục người khác về vấn đề mình đang nói tới. Để thuyết phục người khác nghe
theo quan điểm, ý kiến cá nhân của mình và từ đó nhận ra những vấn đề nào là
đúng và vấn đề nào là sai. Trong văn nghị luận ta sẽ gọi thái độ là tình, còn ý
kiến là lý. Để thuyết phục được ý kiến của mình thì chúng ta cần có phải có kĩ
năng phân tích yêu cầu của đề, có cách lập luận sắc bén, dẫn chứng rõ ràng, thuyết
phục, biết triển khai và xây dựng luận điểm. Từ đó đưa ra một số giải pháp giúp
học sinh khắc phục những hạn chế trong khi viết bài văn nghị luận xã hội.
II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
Để có kiến thức viết bài văn nghị luận
xã hội, cần cho
học sinh phân biệt được những điểm giống nhau và khác nhau của hai kiểu bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống và nghị
luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí để các em có sự phân biệt rõ ràng,
chính xác, tránh nhầm lẫn trong khi thực hiện các bước làm bài. Cụ thể các em cần
phân biệt về khái niệm, điểm xuất phát, dấu hiệu nhận biết, cách lập luận và ý
nghĩa của mỗi kiểu bài.
|
Nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống
|
Nghị luận về một vấn đề
tư tưởng, đạo lý
|
Giống nhau
|
- Kiểu bài: Đều mang đặc điểm chung của
kiểu bài nghị luận xã hội.
- Hình thức: Bài viết phải có bố cục
mạch lạc, chặt chẽ, luận điểm rõ ràng, luận cứ đúng đắn, xác thực, tiêu biểu;
phép lập luận phù hợp; lời văn chính xác, sinh động.
- Ý nghĩa: Đều rút ra những tư tưởng,
đạo lý, lối sống cho con người.
|
Khác nhau
|
- Khái niệm: là bàn về một sự việc,
hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội. Sự việc đó có thể là đáng khen, đáng
chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ.
- Về xuất phát điểm: Nghị luận về một
sự việc, hiện tượng đời sống thì đi từ một sự việc hoặc một hiện tượng có
trong đời sống để nêu ra những vấn đề tư tưởng ( cách nhìn nhận, cách đánh
giá, ý kiến...của người viết về một sự việc, hiện tượng nào đó)
- Dấu hiệu nhận biết: Đề bài nêu sự
việc hiện tượng xảy ra cụ thể ( sự việc gì? Xảy ra ở đâu?) với đối tượng cụ
thể ( ai làm việc đó? Làm việc đó như thế nào?)
- Cách lập luận: Nghị luận về một sự
việc hiện tượng đời sống thường lấy dẫn chứng từ thực tế, sử dụng phép lập
luận giải thích, phân tích, chứng minh...làm sáng tỏ các sự việc, hiện tượng.
- Ý nghĩa của sự việc hiện tượng: Từ
việc phân tích một sự việc, hiện tượng đời sống mà nêu ra những vấn đề tư
tưởng, cách hành động theo hướng đồng tình, ủng hộ hoặc lên án, phê phán.
|
- Khái niệm: Nghị luận về một vấn đề tư
tưởng đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống...của con người.
- Về xuất phát điểm: Nghị luận về một
tư tưởng đạo lí thì đi từ một tư tưởng, đạo lí sau đó dùng phép lập luận giải
thích, chứng minh... để thuyết phục người đọc nhận thức đúng tư tưởng, đạo lý
đó.
- Dấu hiệu nhận biết: Đề bài nêu ra
những phạm trù đạo đức, phẩm chất của con người, hoặc cách ứng xử, những câu
nói, ý kiến... (thường được trích dẫn và đặt trong dấu ngoặc kép)
- Cách lập luận: Nghị luận về tư tưởng
đạo lý nghiêng về tư tưởng, về lí lẽ nhiều hơn và sử dụng phép lập luận giải
thích, phân tích, chứng minh...làm sáng tỏ các tư tưởng, đạo lí đó.
- Ý nghĩa của tư tưởng đạo lý: Từ việc
phân tích một tư tưởng đạo lí mà nêu ra ý nghĩa của tư tưởng, đạo lí là đáng
học tập, phát huy hay đáng phê phán.
|
Sau khi nhận diện xong các đặc trưng
riêng của từng kiểu bài tôi luôn hướng học sinh thực hiện một số giải pháp như:
xác định được vấn đề cần nghị luận; các bước xây dựng và triển khai luận điểm,
kĩ năng lập luận giải quyết vấn đề cũng như cách viết các đoạn văn, cách sử dụng
các phép liên kết trong bài. Nắm chắc được điều này học sinh sẽ có những kiến
thức cơ bản đầu tiên về viết văn nghị luận xã hội.
Sau khi đã hoàn tất các khâu trên tôi tiến
hành rèn kỹ năng cho các em để viết một bài văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh
thông qua một số giải pháp:
II.1.
Các giải pháp để thực hiện sáng kiến.
1. Giải pháp 1: Hướng dẫn
xác định vấn đề cần nghị luận và định hướng cách làm từng kiểu bài.
Thông thường kiểu đề bài nghị luận xã hội
thường được thể hiện dưới dạng một nhận định, một câu chuyện hay một ý kiến nào
đó. Đa số các em khi đứng trước một đề bài thường lúng túng trong khâu tìm hiểu
đề, hời hợt trong việc xác định vấn đề cần nghị luận. Từ đó tôi phải đưa ra một
yêu cầu cụ thể cho từng kiểu bài để các em tiếp cận, phân biệt rõ ràng, để có định
hướng viết bài cho đúng.
1.1. Đối với kiểu bài nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống.
Thông thường đề bài văn nghị luận về một
sự việc hiện tượng đời sống thường gần gũi với đời sống và sát hợp với trình độ
nhận thức của học sinh. Các vấn đề nghị luận thông thường gồm:
+ Ô nhiễm
môi trường, tệ nạn xã hội, nạn phá rừng, thiên tai lũ lụt…
+ Bạo lực
gia đình, bạo lực học đường, tai nạn giao thông, dịch bệnh Covid-19...
+ Phong trào tiếp sức mùa thi, giúp đỡ đồng bào lũ lụt,
tấm gương người tốt, việc tốt, nếp sống đẹp…
Phải cho học
sinh thấy được nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống không chỉ có ý
nghĩa xã hội, tác động đến đời sống xã hội mà còn có tác dụng giáo dục tư tưởng,
đạo lí, cách sống đúng đắn, tích cực đối với học sinh, thanh niên.
* Các dạng đề.
Kiểu bài này được cụ thể hóa dưới hai dạng
là: Dạng bài bàn về một
hiện tượng đời sống có tính chất tiêu cực; Dạng bài bàn về một hiện tượng đời sống
có tính chất tích cực. Với kiểu bài này cần có kĩ năng xác định
vấn đề cần nghị luận và có định hướng làm bài như sau :
* Bước
1. Tìm hiểu đề.
- Xác định kiểu bài nghị luận.
- Xác định vấn đề cần nghị luận.
- Xác định phương pháp nghị luận.
- Phạm vi lấy dẫn chứng.
* Bước
2. Tìm ý.
- Miêu tả hiện tượng (trình bày thực trạng – mô tả, giải
thích hiện tượng đời sống được nêu ở đề bài).
- Phân tích những nguyên nhân của
hiện tượng. Chỉ rõ (hậu quả của hiện
tượng - đối với vấn đề tiêu cực); (tác dụng của hiện tượng - đối với vấn đề
tích cực).
- Bình luận mở rộng: Giải pháp cần khắc
phục ( đối với vấn đề tiêu cực); hướng phát huy (đối với vấn đề tích cực).
- Bài học nhận thức - hành động ( Liên hệ
bản thân)
Ví dụ: Dạng bài bàn về một hiện tượng đời sống
có tính chất tiêu cực.
Đề bài. Em có suy nghĩ gì về nạn bạo hành trong xã hội
hiện nay.
* Bước 1. Tìm hiểu đề
- Xác định
kiểu bài: Nghị luận về một sự việc hiện
tượng đời sống.
- Xác định vấn đề cần nghị luận: Nạn bạo
hành trong xã hội hiện nay( bạo hành gia đình, trường học).
- Xác định phương
pháp nghị luận: Giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận
- Phạm vi sử dụng
dẫn chứng: Thực tế cuộc sống.
* Bước 2. Tìm ý.
- Miêu tả
hiện tượng:
Nạn bạo hành - sự hành hạ xúc phạm
người khác một cách thô bạo, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của người khác.
Nạn bạo hành thể hiện ở nhiều góc độ, nhiều phương
diện của đời sống xã hội không chỉ là sự hành hạ thể xác người khác bằng bạo lực
mà còn hành hạ về tinh thần.
Nạn bạo hành diễn ra trong gia đình, trường học, xã hội; phụ nữ, trẻ em thường
là nạn nhân của bạo hành.
- Phân
tích nguyên nhân của hiện tượng.
Do bản
tính hung hăng, thiếu kiềm chế của một số người; do ảnh hưởng của phim ảnh mang
tính bạo lực; do áp lực cuộc sống; do sự thiếu kiên quyết trong cách xử lí nạn
bạo hành.
- Hậu quả của hiện tượng.
Làm tổn
hại đến sức khỏe, tinh thần của con người; làm ảnh hưởng tới tâm lí, sự phát
triển nhân cách, đặc biệt là cử chỉ, ý thức, thái độ đối với người xung quanh.
- Bình luận mở rộng: Giải pháp cần khắc
phục
Cần lên
án đối với nạn bạo hành; cần xử lí nghiêm khắc với những người trực tiếp thực
hiện hành vi bạo hành.
Cần quan
tâm giúp đỡ kịp thời với những nạn nhân của bạo hành.
- Bài học
nhận thức - hành động ( Liên hệ bản thân)
Có ý thức ngăn chặn
các hành vi liên quan đến bạo hành ở mọi nơi, mọi lúc
Trách nhiệm trong việc tuyên truyền nhận
thức cho mọi người về hậu quả của nạn bạo hành.
Ví dụ: Dạng bài bàn về một hiện tượng đời sống
có tính chất tích cực.
Đề bài. Đất nước ta có
nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Em hãy trình bày suy nghĩ của
mình về một tấm gương đó.
* Bước 1. Tìm hiểu đề
- Xác định kiểu bài: Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống.
- Xác định vấn đề cần
nghị luận: Tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi.
- Xác định phương
pháp nghị luận: Giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận.
- Phạm vi sử dụng
dẫn chứng: Thực tế cuộc sống.
* Bước 2. Tìm ý.
- Miêu tả hiện tượng.
Số phận con người không phải ai
cũng có hoàn cảnh tốt để phát triển bản thân, có nhiều người có hoàn cảnh khó
khăn, thậm chí là không được lành lặn như người bình thường nhưng họ vẫn cố gắng
vươn lên trong cuộc sống của mình và trở thành người có ích cho xã hội.
- Phân tích nguyên nhân của hiện tượng.
Đó là những
người không chấp nhận, đầu hàng trước hoàn cảnh, luôn có tinh thần vượt khó,
vươn lên chiến đấu với hoàn cảnh và trở thành tấm gương sáng.
Họ luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi,
kiên trì với việc mình cần làm
Khi vấp ngã, họ biết đứng dậy đi
tiếp, biết nhìn vào những tấm gương trước để học tập.
- Tác dụng của lối sống:
Giúp họ phát
triển bản thân, có được cuộc sống tốt đẹp hơn, được bạn bè nhìn nhận và đánh
giá theo chiều hướng tích cực hơn, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn của họ
Truyền tải đi những thông điệp
quý báu để những người khác có hoàn cảnh tương tự biết vươn lên và gây dựng cuộc
sống tốt đẹp hơn cho bản thân để từ đó giúp ích cho xã hội
Dẫn chứng về những tấm gương vượt
khó:
Ví dụ: Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký dù bị liệt
nhưng với tinh thần ham học hỏi, vượt lên trên số phận, anh đã trở thành vị nhà
giáo vĩ đại
- Bình
luận mở rộng : Hướng phát huy
Trong cuộc sống hiện nay vẫn còn
những người ỷ lại, dựa dẫm vào người khác, không cố gắng vươn lên trong cuộc sống,
hoàn cảnh, họ chấp nhận, đàu hàng với số phận.
Lan tỏa, phát động phong trào vượt khó, hiếu học để
truyền tải thông điệp, tạo động lực cho nhiều hoàn cảnh tương tự có chí hướng
phấn đấu đi lên.
- Bài học
nhận thức - hành động (Liên hệ bản thân)
Mỗi một tấm gương vượt khó mang đến
cho chúng ta những bài học, những câu chuyện khác nhau giúp thúc đẩy chúng ta cần
cố gắng hơn nữa trong cuộc sống.
Không ai
sinh ra đã ở vạch đích, muốn được xã hội tôn trọng và có cuộc sống tốt đẹp hơn,
chúng ta cần lựa chọn cho mình những con đường đúng đắn nhất.
1.2. Đối với kiểu bài nghị luận về một
tư tưởng, đạo lí
Thông thường đề bài văn nghị luận về một
tư tưởng đạo lý thường được được thể hiện một trong các vấn đề sau:
- Vấn đề nhận thức: Lí tưởng sống, mục
đích, ý chí, nghề ngiệp, ước mơ....
- Vấn đề đạo đức, tâm hồn, tính cách:
Lòng yêu nước, lòng dũng cảm, lòng biết ơn,lòng tự trọng.....
- Vấn đề các quan hệ gia đình: Tình mẫu
tử, tình phụ tử, anh em....
- Vấn đề các quan hệ xã hội: Tình thầy
trò, tình bạn bè, tình dân tộc....
- Vấn đề ứng xử, đối nhân xử thế.
* Các dạng
đề.
Những vấn đề nghị luận đó thường được cụ
thể hóa dưới hai dạng đề
Dạng 1. Nghị luận về một vấn đề tư tưởng,
đạo lí được rút ra từ một câu chuyện. ( Dạng đề dài)
Dạng 2. Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
thông qua một nhận định, một ý kiến hay một câu ca dao, tục ngữ. ( Dạng đề ngắn)
Thực tế cho thấy đa số các em khi đứng trước một
đề bài thường lúng túng trong khâu xác định vấn đề cần nghị luận trong đề bài,
hời hợt trong việc định hướng tìm ý giải quyết cho đề bài. Từ đó tôi phải đưa
ra một yêu cầu cụ thể để các em tiếp cận, phân biệt để có định hướng viết cho
đúng tương ứng với mỗi dạng đề bài.
* Dạng đề
bài: Suy nghĩ về một vấn đề tư tưởng, đạo lí được rút ra từ một câu chuyện.
Đối với đề nêu ra dưới dạng câu chuyện
ngắn, người viết phải tóm tắt, giải thích ý nghĩa của câu chuyện để rút ra ý
nghĩa, bài học về tư tưởng, đạo lý. Khi viết chỉ tập chung vào các chi tiết thực
sự có ý nghĩa để làm toát lên vấn đề cần nghị luận. Phần phân tích câu chuyện
chỉ tương đương với phần giải thích vấn đề, không lan man, dàn trải, viết dưới hình thức một đoạn văn. Ở giải pháp này thầy cô giáo chú ý hướng dẫn học
sinh thực hiện thao tác tìm hiểu đề và tìm ý cho dạng đề bài trên như sau:
* Bước 1. Tìm hiểu đề.
- Xác định kiểu bài nghị luận.
- Xác định vấn đề cần nghị luận.
- Xác định phương pháp nghị luận.
- Phạm vi lấy dẫn chứng.
* Bước 2. Tìm ý.
Ở thao tác này giáo viên cần hướng dẫn học
sinh phân tích hoặc tóm tắt câu chuyện để
rút ra ý nghĩa của vấn đề cần nghị luận. Thực hiện các thao tác nghị luận sau
khi đã rút ra được vấn đề nghị luận từ câu chuyện đó theo trình tự như:
- Tóm tắt, giải thích câu chuyện để rút ra vấn đề cần
nghị luận:
Chú ý phân tích các
hình ảnh và giải thích nghĩa của các từ khóa để rút ra ý nghĩa của câu chuyện.
- Phân
tích, chứng minh, bình luận:
Dựa vào ý
nghĩa câu chuyện để khẳng định lại vấn đề. Sau đó dùng lí lẽ, dẫn chứng từ thực
tiễn để chứng minh cho lập luận của mình.
-Bàn luận, mở rộng vấn đề:
Bàn bạc, mở rộng,
đề xuất, ý kiến...; Đánh giá vấn đề: Nêu ý nghĩa của vấn đề, mức độ đúng – sai,
đóng góp- hạn chế của vấn đề.
- Bài
học nhận thức và hành động.
Rút ra bài học cho bản thân (bản thân đã
làm được gì, nếu chưa làm được thì cần có biện pháp như thế nào). Từ đó thuyết
phục mọi người trong gia đình và xã hội cùng áp dụng và hành động.
Sau khi đã hoàn tất các thao tác trong
bước tìm hiểu đề và tìm ý giáo viên đi hướng dẫn học sinh thực hành vào một đề
cụ thể
Ví dụ: Đề bài: Đọc câu chuyện sau: Vết nứt và con kiến
"Có một con kiến đang tha chiếc lá
trên lưng. Chiếc lá lớn hơn con kiến gấp nhiều lần. Bò được một lúc con kiến chạm
phải một vết nứt khá lớn trên nền xi măng. Nó dừng lại giây lát, đặt chiếc lá
ngang qua vết nứt, rồi vượt qua bằng cách bò trên chiếc lá. Đến bờ bên kia con
kiến lại tiếp tục tha chiếc lá và tiếp tục cuộc hành trình"
Hãy trình bày suy nghĩ của em về ý
nghĩa của câu chuyện trên và rút ra bài học cho bản thân.
* Bước 1. Tìm hiểu đề.
- Xác định kiểu bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lý.
- Xác định vấn đề cần nghị luận: Trong
cuộc sống, không ít những lần chúng ta đã phải đối mặt với khó khăn thử thách.
Ta phải biết chấp nhận nó, kiên trì, dũng cảm, sáng tạo và có ý chí, nghị lực để
vượt qua.
- Xác định phương
pháp nghị luận: Giải thích, chứng minh, phân tích, lập luận
- Phạm vi sử dụng
dẫn chứng: Thực tế cuộc sống, trong văn chương.
* Bước 2. Tìm ý.
- Tóm tắt, giải thích câu chuyện để rút
ra vấn đề cần nghị luận:
+ Phân tích hình ảnh con kiến kéo theo một
chiếc lá và nó gặp một vết nứt ở trên đường. Hai hình ảnh đố là biểu tượng cho
khó khăn và trở ngại có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
+Hành động
của con kiến là dừng lại chốc lát để suy nghĩ và nó quyết định đặt ngang chiếc
lá qua vết nứt rồi tìm cách bò ngang qua chiếc lá. Đây là biểu tượng cho con
người biết chấp nhận thử thách, biết kiên trì, sáng tạo, dũng cảm vượt qua bằng
chính khả năng của mình.
=> Vấn đề cần
nghị luận rút ra từ cách phân tích câu chuyện trên là: Là con người cần phải có
ý chí, nghị lực, thông minh, sáng tạo và bản lĩnh mạnh dạn đối mặt với khó
khăn, gian khổ, vươn lên bằng ý chí và nghị lực của bản thân.
- Phân
tích, chứng minh:
+ Câu chuyện có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc
đối với cuộc đời mỗi con người bởi cuộc sống không phải lúc nào cũng phẳng lặng,
thuận buồm xuôi gió, khó khăn thử thách có thể nổi lên bất cứ lúc nào. Những
khó khăn trở ngại đó trong cuộc sống luôn vượt khỏi sự toan tính và dự định của
con người.
+ Vì vây mỗi người cần phải dũng cảm, đối
mặt, chấp nhận thử thách để đứng vững, phải hình thành cho mình một nghị lực,
niềm tin, sự kiên trì sáng tạo để vượt qua.( Dẫn chứng – Bài con quạ khát nước,
anh hùng Hoàng Cầm...)
- Bàn luận, mở rộng vấn đề:
+ Những người
dám đối mặt với khó khăn thử thách sẽ là điều kiện để tu luyện ý chí, là cơ hội
để khẳng định mình. Nếu vượt qua nó con người sẽ trưởng thành hơn, sống có ý
chí hơn.
+ Ngược lại bên
cạnh những con người sống có ý chí nghị lực vẫn còn không ít người sống ỉ lại,
hèn nhát, chấp nhận đầu hàng, đổ lỗi cho số phận cho dù khó khăn ấy chưa phải
là tất cả thì con người đó cần phải lên án, phê phán, bác bỏ..
- Bài
học nhận thức và hành động:
+ Phải có ý thức sống và chiến đấu,
không đầu hàng với số phận.
+
Bản thân phải rèn luyện ý chí và nghị lực, lạc quan vào cuộc sống và cần
nhất có thái độ sống đúng đắn trước mọi hoàn cảnh.
* Dạng đề
bài: Suy nghĩ về một vấn đề thông qua một ý kiến, một nhận định hoặc câu ca
dao, tục ngữ.
- Đối với
những đề nêu ý kiến, một nhận định hoặc câu ca dao, tục ngữ thì người viết phải
xác định được đâu là phần dẫn dắt đề bài, đâu là phần trích dẫn nhận định hoặc
ý kiến. Từ đó giáo viên định hướng cách làm bài cho học sinh thông qua thao tác
tìm hiểu đề và tìm ý cho dạng đề bài này như sau:
* Bước 1. Tìm hiểu đề.
- Xác định kiểu bài nghị luận.
- Xác định vấn đề cần nghị luận.
- Xác định phương pháp nghị luận.
- Định hướng sử dụng dẫn chứng.
* Bước 2. Tìm ý.
Đối với dạng đề bài này giáo viên định
hướng cho học sinh tìm ý thông qua những nội dung cơ bản như sau:
- Giải
thích: Nghĩa đen và
nghĩa bóng ( nếu có) và ý nghĩa tổng quát có trong câu nói, nhận định hay câu
ca dao, tục ngữ trong đề bài.
- Phân
tích, chứng minh:
Phân tích, chứng minh mặt đúng, bác bỏ mặt sai của vấn đề cần nghị luận
( nêu dẫn chứng chứng minh cho vấn đề). Mặt đúng của vấn đề cần nêu được biểu
hiện, tác dụng và hướng phát huy. Nếu đề là nghị luận bác bỏ thì phải chỉ ra mặt
trái của vấn đề, hậu quả và đưa ra định hướng khắc phục.
- Bàn
luận, mở rộng vấn đề. Mở rộng vấn đề bằng cách đào sâu vào vấn
đề đang phân tích hoặc mở rộng bằng cách lật ngược lại vấn đề, đặt giả thiết đối
lập để đem lại một cách nhìn khác cho vấn đề cần ng hị luận. Nếu là biểu hiện tốt
thì ca ngợi, suy tôn. Còn nếu là những biểu hiện xấu thì phải lên án, bác bỏ.
- Bài học nhận thức, hành động. Rút ra được bài học cho bản
thân, thể hiện quan điểm cá nhân mình. Từ đó thuyết phục mọi người trong gia
đình và xã hội cùng áp dụng và hành động. Theo quan điểm, tư tưởng đó.
Ví dụ đề bài: Suy nghĩ về đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn”
* Bước 1. Tìm hiểu đề.
- Xác định kiểu
bài nghị luận: Kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.
- Xác định vấn
đề cần nghị luận: Vấn đề đạo đức, tâm hồn, tính cách ( lòng biết ơn).
- Xác định
phương pháp nghị luận: Giải thích, chứng minh, lập luận.
- Phạm vi sử dụng
dẫn chứng: Lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc sống.
* Bước 2. Tìm ý.
- Giải thích câu tục ngữ, rút ra vấn đề cần nghị
luận
+ Giải thích ngắn gọn nghĩa đen,
nghĩa bóng: uống nước – nhớ nguồn
+ Câu tục ngữ như nhắc nhở chúng ta phải biết ơn những người làm ra
thành quả để cho mình hưởng thụ.
- Phân tích, chứng minh, bình luận.
+ Biểu hiện của
người “ Uống nước nhớ nguồn”.
+ Ý nghĩa của việc “ Uống nước nhớ nguồn”
- Bàn bạc, mở rộng vấn đề.
+ Khẳng định đây là lối sống đúng đắn.
+ Phê phán, bác bỏ lối sống vô ơn bội nghĩa, trái với đạo lí
-
Bài học nhận thức, hành động.
+ Để tỏ lòng biết ơn ta cần phải làm gì.
+ Đưa ra lời khuyên đối với mọi
người xung quanh.
Sau khi áp dụng giải pháp này tôi cho học
sinh thực hiện các bước làm bài văn. Học sinh tự lập được dàn ý theo trình tự hợp
lí. Từ đó tôi định hướng cho các em cách triển khai các ý vừa tìm được thành các
luận điểm ở giải pháp 2.
2. Giải pháp 2: Hướng dẫn
cách xây dựng, triển khai, lập luận cho luận điểm.
Trong giáo dục và
thời đại có viết: “Văn nghị luận đặc trưng bởi tính lập luận, giúp
người viết bộc lộ chủ kiến của mình bằng
“chiến lược trình bày” sao cho các ý tưởng – luận điểm về một vấn đề nào đó
trong văn chương hoặc trong cuộc sống được chặt chẽ, thuyết phục”.
Tôi phải định hướng
cho học sinh phân biệt rõ về luận điểm và luận cứ trong bài văn nghị luận: Luận
điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận. Một bài
văn thường có luận điểm chính, luận điểm
xuất phát, luận điểm triển khai. Luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở
cho luận điểm. Luận điểm là kết luận của những lí lẽ và dẫn chứng đó. Trên cơ sở
đó tôi cho học sinh xây dựng, triển khai luận điểm thông qua bài tập cụ thể.
2.1. Kiểu bài nghị
luận về một sự việc hiện tượng đời sống
Đối với kiểu bài
này, tôi hướng dẫn các em xây dựng và triển khai luận điểm cho một ví dụ cụ thể
như sau:
Ví dụ đề bài: Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt
khó, học giỏi. Em hãy trình bày suy nghĩ của mình về một tấm gương đó.
Dựa vào bước tìm ý
trong giải pháp 1,tôi cho học sinh xây dựng và triển khai hệ thống luận điểm
như sau:
- Luận điểm 1. Miêu tả hiện tượng ( giải
thích hiện tượng).
Trong cuộc sống khi con người ta rơi vào
những hoàn cảnh đặc biệt không mong muốn cần phải biết vươn lên và hoàn thiện bản
thân.
- Luận
điểm 2. Phân tích nguyên nhân của hiện tượng.
+ Luận cứ 1. Đó là những người sống
có ý chí, có nghị lực không chấp nhận, đầu hàng trước hoàn cảnh, luôn có tinh
thần vượt khó, vươn lên chiến đấu với hoàn cảnh và trở thành tấm gương
sáng trong học tập.
+ Luận cứ
2. Họ luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi, kiên trì với việc mình cần làm
+ Khi vấp
ngã, họ biết đứng dậy đi tiếp, biết nhìn vào những tấm gương trước để học tập
+ Luận cứ
3. Tác dụng của lối sống có ý chí, nghị lực, biết vượt lên số phận và trở thành
tấm gương sáng.
- Luận điểm 3. Bình luận mở rộng : Hướng phát huy
Phê phán lối sống ỷ lại, đầu hàng
với số phận. Cần noi gương những người có ý chí và nghị lực sống.
- Luận điểm 4. Bài học nhận thức - hành động (Liên hệ
bản thân)
Mỗi một tấm gương vượt khó mang đến
cho chúng ta một thông điệp cần lan tỏa trong cuộc sống.
2.2. Kiểu bài nghị
luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí
Đối với kiểu bài
này tôi hướng dẫn các em xây dựng và triển khai luận điểm cho một ví dụ cụ thể
như sau:
Ví dụ đề
bài: Có ý kiến cho rằng: “Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc
lên và nở những chùm hoa thật đẹp”.
Em có
suy nghĩ gì về ý kiến trên.
Tôi cho học sinh
xây dựng luận điểm cho đề bài trên dựa vào các bước làm bài nghị luận về tư tưởng
đạo lý như sau:
- Luận điểm 1. Giải
thích tư tưởng, đạo lý.
Câu nói trên có ý nghĩa chỉ sức chịu đựng,
sức sống kỳ diệu, ý chí nghị lực, bản lĩnh vươn lên trong cuộc sống để đi tới thành công.
- Luận điểm 2. Phân
tích, chứng minh.
+ Luận cứ 1.
Trong thực tế cuộc sống vùng đất khô cằn có thể là hoàn cảnh khó khăn, những
gian nan vất vả, khắc nghiệt của cuộc sống mà con người phải trải qua
+ Dẫn chứng và phân tích: Trên hoang mạc khô cằn bỏng rát vẫn có những
loài xương rồng phát triển, sinh sôi, nảy nở và còn kết hoa nữa. Vùng sỏi đá
khô cằn vốn là vùng đất dường như không có sự sống, cùng kiệt nàn, hoang vu vậy
mà cây hoa dại vốn nhỏ bé mông manh là thế, mọc hoang dã, không có bàn tay chăm
sóc của con người mà vẫn sinh sôi nảy nở, luôn tràn đầy sức sống, luôn mạnh mẽ,
vẫn đâm chồi nảy lộc như thách thức với cuộc sống. Thành quả tất yếu của sự cố
gắng không ngừng nghỉ là những chùm hoa, những bông hoa tuyệt đẹp. Chúng xứng
đáng với vẻ đẹp kiêu sa đó, sau khi đã trải qua bao nhiêu thử thách của cuộc đời,
trải qua nắng, gió và sự cần mẫn kiếm tìm sự sống ở nơi tưởng như không còn sự
sống. Đất mẹ không tuyệt tình với ai bao giờ, người không ruồng rẫy, bỏ rơi những
đứa con của mình mà chỉ dạy cho chúng cách sống, cho chúng nếm trải khó khăn để
rồi trưởng thành và cảm nhận được hết cái đẹp, cái diệu kì của cuộc đời này, những thành quả ngọt
ngào.
+ Luận cứ 2. Trước
hoàn cảnh ấy nếu con người biết vượt qua những khó khăn, vất vả, gian lao, khắc
nghiệt đó thì sẽ gặt hái được nhiều thành công đem lại niềm vui trong cuộc sống
như những “chùm hoa thật đẹp” dâng hiến cho đời những gì cao đẹp, ý nghĩa nhất
+ Dẫn chứng và phân tích: Có những người sinh ra không may mắn, họ bị những
dị tật bẩm sinh hay vì những tai nạn đáng tiếc mà thân thể họ không được nguyên
vẹn nhưng nghị lực đã giúp họ đứng lên và chiến thắng nghịch cảnh để rồi dành lấy thành quả đáng tự hào như: chị Nguyễn Thị
Nga, tuy người chị chỉ cao 1,29m nhưng đằng sau thân hình nhỏ bé ấy là một nghị
lực lớn lao, nó đã đưa chị vào cánh cổng trường đại học khoa học xã hội và nhân
văn Thành Phố Hồ Chí Minh, và cô bạn của chị tuy vừa câm vừa điếc nhưng vẫn có
thể mở một cửa hàng lưu niệm để tự nuôi sống bản thân. Người phụ nữ tàn tật (mắc
bệnh bại liệt), bà Nguyễn Thị Lân, 61 tuổi vẫn làm kinh tế, tạo dựng cuộc sống
tự lập của mình và nuôi người mẹ già. Họ là
những số phận, những con người kém may mắn nhưng luôn là tấm gương cho chúng ta
ngưỡng mộ, học tập.
- Luận điểm 3. Bàn luận mở rộng.
- Luận điểm 4.
Bài học nhận thức, hành động.
Cách triển khai luận điểm trong bài nghị
luận xã hội được trình bày theo các bước như sau:
Bước 1. Nêu khái quát luận điểm (luận cứ)
Bước 2. Phân tích hình ảnh, từ ngữ làm nổi
bật cho luận điểm và luận cứ.
Bước 3. Khái quát lại luận điểm.
Sau khi xây dựng
được hệ thống luận điểm tôi hướng dẫn học sinh triển khai luận điểm thành đoạn
văn. Một luận điểm thông thường được triển khai theo trình tự: Dẫn ý, dẫn chứng, phân tích, liên hệ, tiểu kết.
Lựa chọn một số
cách trình bày đoạn văn phổ biến như đoạn văn diễn dịch, quy nạp, tổng - phân -
hợp để cho học sinh triển khai luận điểm.
Đoạn văn trình
bày theo cách diễn dịch: Là đoạn văn trong đó
câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của
câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng
các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận
xét, đánh giá và bộc lộ cảm nhận của người viết.
Ví dụ triển khai ý: Ý
nghĩa của việc “ Uống nước nhớ nguồn” theo cách diễn dịch. Câu chủ đề đứng đầu
đoạn văn:
Lòng biết
ơn là một cơ sở biểu hiện của đạo lý làm người. Ta dễ dàng nhận thấy, trong
những ngày lễ tết nhân dân ta vẫn có phong tục thờ cúng tổ tiên, đó cũng là những
cử chỉ cao đẹp thể hiện lòng biết ơn đối với những người đi trước.. Như vậy, một
xã hội chỉ thực văn minh, phát triển khi được xây dựng vững vàng trên nền tảng
đạo lý tốt đẹp đó.
Đoạn văn
trình bày theo cách quy nạp: Là đoạn văn
được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát, từ
ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách trình bày này, câu chủ đề nằm
ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề không làm nhiệm vụ định hướng nội
dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ khép lại nội dung cho đoạn ấy.
Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và
rút ra nhận xét đánh giá chung.
Ví dụ triển khai ý: Ý nghĩa của việc “Uống nước
nhớ nguồn”. Câu chủ đề đứng ở cuối đoạn văn:
Lòng biết ơn được thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc. Ta
dễ dàng nhận thấy, trong những ngày lễ tết nhân dân ta vẫn có phong tục thờ
cúng tổ tiên, đó cũng là những cử chỉ cao đẹp thể hiện lòng biết ơn đối với những
người đi trước. Một xã hội chỉ thực văn minh, phát triển khi được xây dựng vững
vàng trên nền tảng đạo lý tốt đẹp đó. Như vậy, lòng biết ơn là một cơ sở biểu
hiện của đạo lý làm người.
Đoạn văn trình bày theo cách tổng – phân – hợp: Là đoạn văn phối hợp diễn dịch
với qui nạp. Câu mở đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển
khai cụ thể ý khái quát. Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất
nâng cao, mở rộng. Những câu triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải
thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩ…để
từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, nâng cao vấn đề.
Đối với đoạn văn này tôi thường hướng dẫn cho học sinh viết đoạn văn phần kết
bài.
Tuy nhiên tùy từng đối tượng và năng lực của học sinh để tôi hướng dẫn các
em lựa chọn cách trình bày đoạn văn cho phù hợp. Với đối tượng học sinh giỏi,
tôi hướng các em tăng cường sử dụng cách trình bày đoạn văn tổng - phân - hợp.
Để đoạn văn có
tính thuyết phục lập luận chặt chẽ, tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các phép lập
luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận để làm sáng tỏ cho luận
điểm.
Sử dụng những luận
cứ phù hợp, có sức thuyết phục. Luận cứ là những ý nhỏ, triển khai cho luận điểm.
Luận cứ có thể là dẫn chứng, lí lẽ làm sáng tỏ cho luận điểm. Mỗi luận cứ đưa
ra làm sáng tỏ cho luận điểm thì luận cứ phải xác thực, đúng đắn, tiêu biểu, vừa
đủ đáp ứng yêu cầu chứng minh toàn diện cho luận điểm.
Làm được điều
này tức là các em đã biết triển khai luận điểm thành một đoạn văn. Mỗi đoạn văn
triển khai một luận điểm và các luận điểm đó sẽ làm sáng tỏ cho vấn đề cần nghị
luận.
3. Giải pháp 3: Hướng dẫn cách
viết đoạn văn phần mở bài và đoạn văn kết bài.
Trên thực tế chương
trình Ngữ văn cấp trung học cơ sở không có tiết rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
mở bài, kết bài. Vì thế trong các giờ học lí thuyết, tôi thường kết hợp giao
bài tập về nhà cho các em, tôi đã cố gắng cung cấp cho học sinh kĩ năng để viết
đoạn văn phần mở bài, kết bài cho cả hai kiểu bài nghị luận về sự việc hiện
tượng đời sống, và nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí sao cho vừa đúng,
đủ, ngắn gọn không mất nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo được yêu cầu.
3.1. Viết đoạn văn phần mở bài.
Để
làm được một bài văn nghị luận xã hội thành công cần phải đạt được nhiều yêu cầu, trong đó mở
bài vừa đúng, vừa hay là yêu cầu đầu tiên và cũng có ý nghĩa nhất.
Một bài văn nghị luận xã hội hay cần nhiều kỹ năng, song mở bài là một kỹ năng quan trọng cho thấy người viết đã xác định
đúng và trúng vấn đề, tạo tâm thế cho người
đọc tiếp nhận bài viết. Mục đích của phần mở bài cần đảm bảo ba vấn đề cơ bản là:
- Dẫn dắt vấn đề nghị
luận.
- Đưa vấn đề nghị luận
vào mở bài.
-
Trích dẫn ý kiến, nhận định ( nếu có) hoặc bước đầu nêu khái quát nhận định.
Trong giải pháp này, xuất
phát từ kinh nghiệm và kết quả dạy học tôi lựa chọn ba cách mở bài phổ biến để
hướng dẫn học sinh đó là mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp và mở bài theo hướng phản đề. Mỗi cách mở bài đều có những
ưu điểm và hạn chế tùy thuộc vào khả năng
vận dụng và yêu cầu của đề để vận dụng. Mở bài nhằm giới thiệu một cách khái
quát vấn đề sẽ được triển khai, bàn bạc. Mở bài hay, tự nhiên sẽ như một dòng
chảy được khơi thông, ý văn sẽ được mở ra. Ngược lại, mở bài lúng túng không
trúng vấn đề sẽ khiến việc triển khai ý khó khăn, khó tạo ra sự liên thông, liền
mạch.
Cách 1.
Mở bài trực tiếp: là đi thẳng vào vấn đề nghị luận. Học sinh sau khi tìm hiểu đề
và tìm được vấn đề trọng tâm của bài nghị luận thì sẽ đưa vào bài, đặt vấn đề
ngay. Phần mở bài trực tiếp này dễ làm, nhanh gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận tuy
nhiên thường khô khan, cứng nhắc và thiếu hấp dẫn cho bài viết.
Ví dụ trong đề bài ở mục 2.2.2 giải pháp
2 học sinh có thể mở bài trực tiếp như sau:
Trong cuộc sống hàng ngày, sự thành công
không phải lúc nào cũng đến với chúng ta một cách dễ dàng. Thành công luôn gắn
liền với gian lao, thử thách, đòi hỏi chúng ta phải có ý chí, nghị lực, quyết
tâm vượt qua nó. Chính vì thế đã có ý kiến cho rằng: “Giữa một vùng sỏi đá khô
cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp”.
Cách 2.
Mở bài gián tiếp: trong văn nghị luận dẫn dắt vào đề bằng cách nêu
lên những ý có liên quan đến vấn đề mà đề bài yêu cầu để gây sự chú ý cho người
đọc sau đó mới dẫn dắt sang chủ đề. Mở bài theo cách này tạo được sự uyển chuyển,
linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc, tuy nhiên kiểu mở bài này dễ dẫn đến
sự lan man, lạc đề cho bài viết.
Cách 3. Mở bài theo hướng phản đề:
Nêu ra một ý kiến trái ngược với ý trong đề bài rồi lấy đó làm cơ sở để đề cập
sang vấn đề cần nghị luận.
Tuy
nhiên tùy vào từng đối tượng học sinh mà tôi yêu cầu các em viết theo năng lực
của bản thân. Với học sinh trung bình – yếu tôi chỉ cần các em viết được mở bài
trực tiếp, đảm bảo đủ và đúng. Còn đối với học sinh khá – giỏi yêu cầu các em
viết mở bài gián tiếp hoặc mở bài theo hướng phản đề.
3.2. Viết đoạn văn phần kết bài.
Kết bài chính là cách mà người viết
khẳng định và truyền tải lại thông điệp cho người đọc, cũng là cách để gây những
ấn tượng nhất định cho người đọc. Một kết bài lủng củng, thiếu chiều sâu hay một
kết bài quá ngắn gọn chưa tóm lược được vấn đề chính là sẽ làm ảnh hưởng lớn
cho bài văn nghị luận. Chính vì lẽ đó, học sinh cần nắm được cách để viết được
một kết bài văn nghị luận đủ ý, ngắn gọn mà vẫn tạo ấn tượng cho người đọc.
Có rất
nhiều cách viết kết bài, tuy nhiên để viết được kết bài ấn tượng thì các em phải
viết được kết bài đúng rồi mới bắt đầu viết hay. Kết bài phải đảm bảo được các
nội dung cần thiết trong văn nghị luận và đưa vào bài được những yếu tố thu hút
người đọc. Phần kết bài cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Thể hiện đúng quan điểm đã
trình bày ở phần thân bài.
- Nêu ý khái quát toàn bài,
không lặp lại các ý đã nêu ở phần thân bài.
- Kết
bài phát triển bằng một tư tưởng liên hệ với nó, có thể sử dụng câu thơ hay
châm ngôn để kết lại vấn đề.
- Kết bài thiên về tổng kết, đánh giá vấn đề, kết bài
không nên quá ngắn hay quá dài.
Ví dụ viết phần kết bài cho đề bài: Suy
nghĩ về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.
Tóm lại, câu tục ngữ trên là lời khuyên bảo, nhắc nhở chúng ta luôn nhớ tới
một truyền thống, đạo lí vô cùng tốt đẹp. Những thế hệ trẻ hôm nay hãy biết ơn,
ghi nhớ, gìn giữ những gì mà thế hệ trước đã làm để cho chúng ta hưởng thụ.
Phát huy và lan tỏa đạo lí là một việc làm có ý nghĩa to lớn và đó cũng là
trách nhiệm của mọi người. Làm được như vậy, chúng ta đã góp phần biết kế thừa,
phát huy và giữ gìn giá trị vật chất, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
4. Giải pháp 4: Hướng dẫn kỹ năng liên kết câu
và liên kết đoạn văn.
Sau khi học sinh đã
viết được các phần mở bài, thân bài, kết bài giáo viên hướng dẫn các em dùng
các phép liên kết để kết nối các đoạn văn lại với nhau đảm bảo tính liên kết về
nội dung và hình thức như:
Liên kết về nội dung: Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản,
các câu văn phải phục vụ chủ đề chung của đoạn (liên kết chủ đề); các đoạn văn,
câu văn phải được sắp xếp theo trình tự hợp lí (liên kết lôgíc)
Liên kết về hình thức: Các câu văn, đoạn văn
có thể được liên kết với nhau bằng một số biện pháp chính là phép phép lặp từ
ngữ, phép đồng nghĩa, trái nghĩa, phép liên tưởng, phép thế, phép nối.
Hình thành
cho học sinh được kỹ năng này được coi là khâu cuối cùng của bài viết. Từ đó
bài viết của các em sẽ đảm bảo được tính liên kết chặt chẽ, thống nhất và trọn
vẹn cả về nồi dung và hình thức.
Ví dụ viết phần kết bài cho đề bài: Suy
nghĩ về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các phép
liên kết đảm bảo liên kết về nội dung và liên kết về hình thức.
Tóm lại, câu tục ngữ
trên là lời khuyên bảo, nhắc nhở chúng ta luôn nhớ tới một truyền thống, đạo lí
vô cùng tốt đẹp. Những thế hệ trẻ hôm nay hãy biết ơn, ghi nhớ, gìn giữ những
gì mà thế hệ trước đã làm để cho chúng ta hưởng thụ. Phát huy và lan tỏa đạo lí
là một việc làm có ý nghĩa to lớn và đó cũng là trách nhiệm của mọi người. Làm
được như vậy, chúng ta đã góp phần biết kế thừa, phát huy và giữ gìn giá trị
vật chất, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
II. 2. Nhận xét về hiệu quả của giải pháp.
* Khi chưa áp dụng giải pháp
Qua thực tế giảng dạy
nhiều năm đối với môn Ngữ văn lớp 7, tôi
thấy các tiết học Tập làm văn khi chưa áp dụng giải pháp này thì các em còn mơ
màng, nhận thức hời hợt và cảm thấy viết văn là rất khó. Không biết triển khai
luận điểm cũng như cách diễn đạt một đoạn văn bởi thời lượng trên lớp không đủ
để hướng dẫn các em ôn lại kiến thức từ các lớp dưới. Từ đó không gây được hứng
thú cho học sinh trong các giờ học môn Ngữ văn.
* Khi áp dụng giải pháp.
Khắc phục những hạn
chế yếu kém khi viết bài nghị luận xã hội cho học sinh với cách thông thường mà
trước đây tôi đã sử dụng. Tôi đã sử dụng đa dạng các kỹ thuật dạy học như đào
tạo một nhóm chuyên gia luôn phát huy vai trò trong các giờ luyện tập viết bài.
Nhóm sẽ làm nhiệm vụ kèm cho những bạn kỹ năng viết còn yếu kém đi từ chỗ viết
sai, viết dở đến viết đúng viết hay.
Hơn nữa việc thay đổi
phương pháp dạy học cũng gây được hứng thú cho học sinh. Trước đây là thầy đọc
trò chép, thầy nói trò ghi thì nay tôi đã chuyển sang phương pháp dạy học theo
định hướng phát triển năng lực. Dùng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
để hướng dẫn học sinh thực hiện từng giải pháp. Rèn cho các em cách viết từng
câu, từng đoạn, từng cách triển khai luận điểm bằng hệ thống bảng chiếu vừa
tiết kiệm được thời gian, vừa giúp học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ.
Với các giải pháp mà
tôi đã đưa ra các em đã có hứng thú trong giờ học văn, thích ứng ngay với kỹ
năng viết bài. Không còn cảm giác lúng túng, hành văn rời rạc thiếu lô gíc.
Đứng trước một đề bài các em có định hướng viết đúng dẫn tới viết hay, viết
theo chiều sâu thể hiện được tư duy lô gíc và làm sáng tỏ được nhiều khía cạnh
của vấn đề.
III. KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG
1. Đánh giá khả năng áp dụng của giải pháp
Giải pháp này được áp
dụng trong các giờ dạy chính khóa, các tiết học buổi 2/ngày. Sau mỗi bài viết
của học sinh, giáo viên thường xuyên kiểm tra, sửa lỗi và định hướng lại cách
viết cho những học sinh chưa thành thạo kỹ năng. Việc làm này được tiến hành
thường xuyên và liên tục để chất lượng làm bài của các em không ngừng được nâng
lên.
Để làm được điều này
tôi đã phải xây dựng kế hoạch cho từng thời điểm thích hợp với môn học. Riêng
đối với đội tuyển ôn học sinh giỏi, tôi áp dụng giải pháp này từ thời điểm bắt
đầu ôn ngay từ đầu năm học, nâng nhận thức của các em cao hơn một bậc so với
học sinh đại trà. Hình thành cho các em kỹ năng làm bài văn nghị luận ngay trong những buổi ôn đầu tiên để các em có
hứng thú với môn học và không còn bỡ ngỡ khi tiếp cận với kiến thức mới ở mức
độ cao hơn.
Với giải pháp này bản
thân tôi đã áp dụng nhiều năm trong giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7 cũng như công tác ôn bồi dưỡng đội tuyển
học sinh giỏi và đã thu được kết quả nhất định.
Kết quả khảo sát bằng
phiếu thăm dò sau khi áp dụng giải pháp này trong giữa học kì II lớp 7 năm học 2021 - 2022 là:
Thăm dò ý kiến
Tổng số học sinh
|
Hứng thú học
môn Ngữ văn
|
Khả năng biết cách
viết bài văn
|
55
|
Có
|
Không
|
Có
|
Không
|
45/55= 81,8%
|
10/55 = 18,2%
|
45/55= 81,8%
|
10/55 = 18,2%
|
Từ thực trạng đó thì kết quả tôi thu được từ bài viết kiểm tra giữa học
kì II là:
Điểm
Tổng số
|
Giỏi
|
Khá
|
Trung
bình
|
Yếu
– kém
|
55
|
Tổng số
|
Tỷ lệ
|
Tổng số
|
Tỷ
lệ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ
|
5
|
9 %
|
20
|
36,3%
|
24
|
43,8%
|
6
|
10,9%
|
Như vậy so với các cách dạy học trước đây thì
việc áp dụng giải pháp mới đã có nhiều điểm khác biệt như: Tăng khả năng gây
hứng thú cho học sinh đối với môn học; kỹ năng sống được hình thành và vận dụng
vào cuộc sống khá linh hoạt; kiến thức của các em được nâng lên, diễn đạt,
trình bày rõ ràng, xúc tích; kết quả học tập cũng có nhiều thay đổi theo hướng
tích cực.
Đây là giải pháp tôi
tìm thấy tính khả thi cao, có thể áp dụng một phần nào đó vào các dạng bài viết
khác trong môn ngữ văn ở tất cả các khối lớp.
Ngoài ra tôi cũng được
đồng nghiệp, nhà trường đánh giá cao trong công tác bồi dưỡng đội tuyển học
sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 7. Với kinh
nghiệm và kiến thức của bản thân, tôi sẽ vận dụng giải pháp này vào việc ôn
tập, trang bị kiến thức cho các em đạt kết quả cao trong đợt kiểm tra cuối học
kỳ II sắp tới để 100% học sinh khối lớp 7 lên
lớp 8, học sinh lớp 9 đủ điều kiện xét tốt nghiệp và là hành trang
tri thức cho các em bước vào kỳ thi chuyển các cấp
tiếp theo.
IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Trong quá trình tiến
hành thực nghiệm tôi đã đúc rút được một số giải pháp cơ bản sau:
Với cách làm này có
thể thực hiện vận dụng giải pháp ngay
từ lớp 7 để lớp 9 và cao hơn có kiến
thức nghị luận tốt, vững chắc hơn.
Vận dụng cách làm này
cho tất cả các dạng bài nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học
cơ sở. Tuy nhiên với mỗi dạng bài lại có cách triển khai riêng nên mỗi giáo
viên khi áp dụng giải pháp này cần phải cho học sinh nắm vững các yêu cầu cụ
thể, bắt buộc khi viết bài văn ứng với mỗi kiểu bài.
Tạo hứng thú cho học
sinh yêu thích môn học ngay từ khi các em làm quen với môn học Ngữ văn cấp trung học
cơ sở để tránh gây chán nản, không yêu thích môn học.
Vận dụng giải pháp này
vào quá trình dạy học kiểu bài nghị luận xã hội cho tất cả các trường trong
huyện áp dụng. Đặc biệt đây cũng là một kinh nghiệm mà tôi muốn truyền cho đồng
nghiệp của tôi trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn. Làm được
điều này nhận thức về môn Ngữ văn của các em sẽ cao hơn, gây hứng thú, thu hút
các em tham gia vào quá trình học tập một cách tích cực, chủ động hơn.
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ
XUẤT/KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Vận dụng giải pháp để
rèn kỹ năng cho học sinh như đã đưa ra ở trên, tôi đã kích thích được hứng thú
học tập cho học sinh. Các em từ chỗ không hứng thú với việc học tập môn Ngữ văn
đến chỗ các em thấy say mê và cảm nhận viết bài văn nghị luận xã hội không phải
là một vấn đề khó, khô khan, cứng nhắc như cách hiểu trước kia.
Các
em có định hướng viết bài cụ thể, triển khai bài văn theo hệ thống luận điểm
thông qua các bước, không viết theo cảm tính, ngẫu hứng như trước đây.
Kích thích được các em
tăng cường đọc tài liệu, tích lũy những kiến thức từ thực tế để vận dụng vào
bài nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng một cách linh hoạt, sáng
tạo.
Như vậy trong những
năm gần đây, nhờ áp dụng giải pháp này mà tôi cũng đã thu được kết quả nhất định.
100% ý thức học tập bộ môn của
các em cũng được nâng lên. Trong các giờ thảo luận, các em tích cực, sôi nổi,
mạnh dạn hơn và không cảm thấy nhàm chán như các giờ học trước khi áp dụng giải
pháp.
Kỹ năng giao tiếp của
các em cũng dần được hình thành như kỹ năng nói, diễn đạt, trình bày đảm bảo
tuân thủ đúng các phương châm hội thoại. Nói đúng, nói đủ, nói có nội dung, nói
rõ ràng, rành mạch có đầu có cuối...
Chất lượng bài viết
của các em trong các giờ luyện tập và kết
quả bài kiểm tra giữa kỳ II được nâng
lên rõ rệt. Đạt tỷ lệ từ 90% điểm từ
trung bình trở lên, không còn hiện tượng học sinh bị điểm kém. Cách diễn đạt,
hành văn có sự tiến bộ vượt bậc.
Riêng đối với đội
tuyển ôn học sinh giỏi, tôi áp dụng giải pháp này từ thời điểm bắt đầu ôn, nâng
nhận thức của các em cao hơn một bậc so với học sinh đại trà. Hình thành cho
các em kỹ năng làm bài văn nghị luận xã hội ngay trong những buổi ôn đầu tiên
để các em có hứng thú với môn học và không còn bỡ ngỡ khi tiếp cận với kiến
thức mới ở mức độ cao hơn. Kết quả bồi dưỡng
đội tuyển qua nhiều năm học từ năm học tôi đều có học sinh đạt giải học sinh giỏi
môn Ngữ văn cấp huyện .
Đây là một thành
công bước đầu khi tôi áp dụng giải pháp này vào thực tế giảng dạy và công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi. Năm nay tôi tiếp tục áp dụng giải pháp này một cách triệt
để hơn với mong muốn học sinh không chỉ đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra,
mà nó còn là một hành trang cho các em trải qua các kỳ thi năng khiếu sắp tới, hướng tới các kỳ thi tốt nghiệp, thi chuyển cấp sau này.
Với kết quả tôi thu
được như trên, trong thời gian tới tôi là sẽ lan tỏa giải pháp này cho các đồng
nghiệp cùng chuyên môn. Thời gian còn lại của năm học sẽ là cái đích để tôi
hướng cho các em thực hành thành thạo các kỹ năng viết bài để các em đạt kết
quả cao trong các kỳ thi sắp tới.
2. ĐỀ XUẤT,
KIẾN NGHỊ
Để giúp cho
việc nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói chung và phần nghị luận nói riêng, tôi xin đưa ra một số kiến
nghị, đề xuất như sau:
Về phía gia đình:
Các bậc phụ huynh cần phải quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em có
thời gian tự học và học sinh phải được đầu tư sách hướng dẫn học, vở ghi, có tài liệu đầy đủ giúp các em có
tâm thế để tiếp thu kiến thức môn học.
Về phía nhà trường: Cần có những tủ sách
tham khảo, tư liệu phong phú hơn để các em thường xuyên đọc, mở rộng vốn sử dụng
từ ngữ cũng như khám phá thêm được những kiến thức từ thực tế cuộc sống.
Trên đây là một vài
kinh nghiệm rèn kỹ năng viết bài văn nghị luận xã hội trong môn Ngữ văn ở trường trung học
cơ sở. Tôi hi vọng rằng với một vài kinh nghiệm
nhỏ của tôi sẽ giúp cho các đồng nghiệp nâng cao chất lượng dạy – học môn Ngữ
văn ở các trường trung học
cơ sở.
Văn Bình, ngày … tháng … năm 2022
|
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Hà Thị Thanh Huyền
|