Lịch
sử ngày 8-3 bắt
đầu từ phong trào của nữ công nhân ngành dệt nước Mỹ vào cuối thế kỳ XIX. Ngày
8/3/1857, các công nhân ngành dệt đứng dậy chống lại những điều kiện làm việc
khó khăn và tồi tàn của họ tại thành phố New York. Hai năm sau, cũng trong
tháng 3, các nữ công nhân Hoa Kỳ trong hãng dệt thành lập công đoàn đầu tiên đã
được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
Khoảng 50 năm sau, ngày
8/3/1908, 15.000 phụ nữ diễu hành trên các đường phố New York đòi tăng lương,
giảm giờ làm việc và hủy bỏ việc bắt trẻ con làm việc. Sau đó, Đảng Xã hội Hoa
Kỳ tuyên bố Ngày Quốc tế Phụ nữ là ngày 28/2/1909.
Tuy nhiên, đến ngày 8/3/1910, tại Hội nghị
phụ nữ do Quốc tế thứ 2 (Quốc tế xã hội chủ nghĩa) tổ chức, 100 đại biểu phụ nữ
thuộc 17 nước đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Chủ tịch Hội nghị là bà Clara
Zetkin, phụ nữ Đức, đã đề nghị chọn một ngày quốc tế phụ nữ để nhớ ơn những phụ
nữ đã đấu tranh trên toàn thế giới. Hội nghị đã quyết định chọn ngày 8/3 làm
Ngày Quốc tế Phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ với những khẩu hiệu:
“Ngày làm việc 8 giờ”, “Việc làm ngang nhau”, “Bảo vệ bà mẹ và trẻ em”.
Từ đó, ngày 8/3 hàng năm
trở thành ngày đấu tranh chung của phụ nữ lao động trên toàn thế giới, là biểu
dương ý chí đấu tranh của phụ nữ khắp nơi trên thế giới đấu tranh vì độc lập
dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội; vì quyền lợi hạnh phúc của phụ nữ
và nhi đồng.
Ở nước ta, vào ngày 8/3 còn là dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hai
vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ
nguyên bờ cõi, giang sơn đất Việt.
Thắng lợi cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà trưng được đánh giá là một bản anh hùng ca bất diệt, thể hiện ý chí
độc lập và niềm tự hào dân tộc. Đồng thời, cuộc khởi nghĩa cũng là một minh
chứng cho sức mạnh của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử nhân loại trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng,
Trưng Trắc và Trưng Nhị là con gái lạc tướng ở Mê Linh. Cha mất sớm, hai chị em
Trưng Trắc, Trưng Nhị được mẹ là bà Man Thiện một mình nuôi dạy trở thành người
có đức có tài và sớm được nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và thượng võ. Thời đó,
quân Đông Hán đô hộ nước ta, cử Tô Định làm thái thú Giao Chỉ. Tô Định vốn nổi
tiếng tham lam, tàn bạo, đã tăng cường thu các loại thuế và đồng hóa dân ta,
gây nên bao nỗi oán thán, uất hận trong nhân dân. Chúng trói buộc dân ta phải
tuân theo lễ giáo phong kiến Hán từ cách ăn mặc đến việc lấy vợ, lấy chồng và
hạn chế quyền hành của các lạc tướng. Chính sách tàn bạo của chúng khiến người
người đều oán giận, nhân dân sục sôi khí thế nổi dậy chống lại quân xâm lược.
Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than, Hai Bà Trưng càng tăng
thêm lòng diệt thù, phục quốc. Hai Bà đã chiêu tập binh sĩ, sắm sửa khí giới
quyết tâm khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, khôi phục nền độc lập của dân
tộc, đền nợ nước, trả thù nhà. Tương truyền ngày mồng 6 tháng Giêng, Hai Bà
Trưng mở tiệc khao quân, làm lễ tế cờ khởi nghĩa trên dàn thề trước quân sĩ ở
cửa sông Hát (thuộc đất Mê Linh) Hai Bà đã thể hiện ý chí kiên cường:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng,
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này!
Ngọn cờ khởi nghĩa như
tiếng gọi thiêng liêng cứu nước đã lan truyền rộng rãi và nhận được sự hưởng
ứng của các lạc tướng yêu nước ở khắp các quận huyện vùng lưu vực sông Hồng.
Phụ nữ là lực lượng đông đảo tham gia đội ngũ của nghĩa quân, trong đó có các
mẹ, những người vợ, những cô gái trẻ là nữ tướng tài giỏi của thời đại ấy như
Bà Man Thiện (mẹ của Hai Bà Trưng), Bát Nàn (Thái Bình), Lê Thị Hoa (Thanh
Hóa), Lê Chân (Hải Phòng), Thánh Thiện (Hà Bắc)… Nghĩa quân và chủ tướng muôn
người như một, tiến quân đi rầm rập, thuyền bè tấp nập, tiếng quân hô vang động
khắp vùng. Xuất phát từ Mê Linh, Hai Bà Trưng đã chỉ huy nghĩa quân đánh phá
các cơ quan quân sự của nhà Hán đặt tại Mê Linh, sau đó quân của Hai Bà đã tiến
đánh thành Cổ Loa. Đi đến đâu nghĩa quân cũng được nhân dân hết lòng giúp đỡ và
bổ sung quân số đến đấy. Từ Cổ Loa, quân thủy bộ của Hai Bà đã tiến về Luy Lâu
(Thuận Thành, Hà Bắc), tiêu diệt thủ phủ của chính quyền đô hộ nhà Hán ở Phương
Nam. Hoảng sợ trước khí thế nổi dậy của nghĩa quân, những tên cầm đầu đã không
dám chống cự lại, Thái thú Tô Định cũng phải bỏ hết của cải, giấy tờ, ấn tín
rồi cắt tóc, cạo râu chạy trốn về Quảng Đông. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra các
quận, Quần chúng nhất tề nổi dậy dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương.
Chỉ trong thời gian ngắn, quân của Hai Bà đã nhanh chóng đập tan chính quyền đô
hộ của nhà Hán, giải phóng và làm chủ toàn bộ lãnh thổ nước ta hồi đó, giành
lại nền độc lập, tự chủ dân tộc. Bà Trưng được các tướng lĩnh và nhân dân
các địa phương đồng lòng suy tôn làm vua, Bà lấy hiệu là Trưng Vương và đóng đô
ở Mê Linh.
Sự thất bại của quân Đông
Hán đã làm triều đình phương Bắc tức tối, hạ chiếu sai các quận trong nước cấp
tốc chuẩn bị lương thực, quân số và các phương tiện chiến tranh để đánh chiếm
lại nước ta. Tháng 4 năm 42, nhà Hán sai Mã Viện, tên tướng già có nhiều kinh
nghiệm đem 2 vạn quân và 2000 thuyền xe sang xâm lược nước ta. Chúng tập trung
quân ở Hợp Phố rồi theo 2 đường thủy, bộ tiến vào miền Lãng Bạc (thuộc Tiên sơn
- Hà Bắc). Trên đường tiến quân, chúng đã bị quân của Hai Bà mai phục, đánh bất
ngờ chịu nhiều tổn thất. Trưng Vương cùng các tướng lĩnh chỉ huy một đạo quân
xuất phát từ Mê Linh đánh xuống Lãnh Bạc, cuộc chiến diễn ra ác liệt, quân của
Trưng Vương chiến đấu anh dũng, tiêu diệt nhiều địch. Nhưng vì chưa có kinh
nghiệm tổ chức chiến đâu nên bị thua, phải lui về Cẩm Khê (chân ngọn núi Vua Bà
- Hà Sơn Bình) để xây dựng căn cứ, bảo toàn lực lượng và tiếp tục chiến đấu.
Nơi đây đã trở thành chiến trường chống giặc ngoại bang xâm lược kéo dài 2-3
năm. Cuối cùng do lương thực và khí giới dự trữ đã cạn, quân số hao hụt, lại bị
lâm vào tình trạng bao vây. Quân của Trưng Vương dần dần tan rã, Hai Bà Trưng
hy sinh oanh liệt và cuộc khởi nghĩa về cơ bản bị thất bại.
Mặc dù chỉ tồn tại trong
thời gian ngắn, nhưng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã khắc dấu
son đầu tiên trong lịch sử dân tộc, khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ
Việt Nam trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, làm vẻ vang, rạng rỡ non
sông đất nước, hun đúc truyền thống quý báu, niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam
anh hùng - bất khuất - trung hậu - đảm đang”.
Kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà
Trưng là tái hiện hào khí, tinh thần đấu tranh bất khuất của Hai Bà Trưng trong
lịch sử dựng nước và giữ nước, tinh thần thượng võ cùng những giá trị văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, như: tôn vinh hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn âm thầm
hy sinh và chịu đựng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Họ xứng đáng nhận được sự
tôn trọng và quan tâm hơn nữa từ một nửa kia còn lại của thế giới, đồng thời
giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn và củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân.