1. Thực tại đời sống là
cội nguồn sáng tạo nghệ thuật
- Không có cuộc sống sẽ không có sáng tạo nghệ thuật. Đối
tượng phản ánh của văn học là con người trong không gian, thời gian, thiên
nhiên, vũ trụ và trong các mối quan hệ xã hội. Văn học phản ánh đời sống của
con người và nhận thức về con người với ước mơ tâm tư nguyện vọng.
-
Thực tại đời sống là đề tài vô tận cho văn chương khai thác và phản ánh, là
chất liệu vô cùng phong phú sinh động cho nhà văn lựa chọn và sử dụng trong quá
trình sáng tạo nghệ thuật. Hiện thực chính là cái nôi nuôi dưỡng nhà văn, là mảnh
đất nhà văn sống hình thành cảm xúc. "Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là
nơi đi tới của văn học", "Nhà văn là người thư kí trung thành của thời
đại". Bởi vậy văn học là cuốn “ bách khoa toàn thư” về đời sống và
con người. Nhà văn lấy chất liệu là cuộc sống hiện thực, từ đó cung cấp
cho con người nhưng tri thức về xã hội, làm giàu vốn tri thức của con người.
- Văn học là tấm gương phản ánh đời sống,
không bám sát đời sống nhà văn sẽ không thể cho ra đời những tác phẩm văn học giàu
chất sống, có giá trị. Nếu thoát li thực tại, văn chương sẽ rơi vào siêu hình,
thần bí.
2.
Không thể đánh đồng thực tại với văn chương
- Văn học phản ánh đời
sống nhưng không bê nguyên xi hiện thực vào trong tác phẩm. Nếu đánh đồng thực
tại với văn chương thì lúc đó văn chương không phải là sáng tạo nghệ thuật. Nếu
văn chương chỉ và ghi chép lại những điều đã có trong hiện thực thì người đọc
cũng chỉ nhìn thấy trong tác phẩm những gì họ nhìn thấy ngoài đời và như vậy
văn chương không còn cần thiết và không có giá trị gì, tác phẩm sẽ trở nên nhạt
nhẽo, vô hồn.
- Thực tại trong văn
học không phải là sự phản ánh máy móc, rập khuôn mà được thể hiện qua chủ quan
của người nghệ sĩ. Nó được phản chiếu qua tâm hồn, trí tuệ, cảm xúc mãnh liệt
của nhà văn trước hiện thực. Nếu nhà văn chỉ chụp ảnh cuộc sống thì không cần
đến vai trò của nhà văn. Sứ mệnh của nghệ sĩ là phản ánh hiện thực theo cái
mới, qua tác phẩm kí thác những thông điệp tinh thần muốn gửi đến bạn đọc, hướng
con người đến vẻ đẹp chân- thiện- mĩ. Để đạt được hiệu quả nghệ thuật, trong
tác phẩm hiện thực đôi khi được hư cấu, tô đậm hơn.
- Thực tại trong
tác phẩm văn chương bao gồm cả những điều mà mọi người đều đã thấy và cả vấn đề
người khác chưa thấy, những điều sâu sắc mới mẻ mà chỉ nhà văn mới thấy.
- Hiện thực đời
sống được người nghệ sĩ sắp xếp, tái hiện một cách sáng tạo thành chỉnh thể
nghệ thuật. Tuy nhiên sự lựa chọn, sắp xếp hiện thực trong tác phẩm văn chương
cần phải tạo cho nhà văn, nhà thơ một tiếng nói riêng, một phong cách riêng,
tạo nên sự hấp dẫn với bạn đọc.
Có thể nói, tác phẩm văn học đích thực phải
là sự phản ánh, sáng tạo, kiến giải hay về con người và đời sống.
3. Thực tại trong tác
phẩm văn chương là cơ sở tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm
3.1. Biểu hiện của tính hiện thực của tác
phẩm văn học là:
+ Phản ánh đúng
thực tại, bản chất của đời sống và chức năng của văn học là giúp con người nhận
thực đời sống xã hội.
+ Sự chân thực của
cảm xúc, đánh giá, bày tỏ thái độ của người nghệ sĩ trước hiện thực, sự thể
hiện bản lĩnh, nhân cách, cá tính độc đáo, tài năng của họ.
3.2. Bản chất của tính
hiện thực trong tác phẩm văn học
+ Đối tượng phản ánh của văn học là toàn bộ thế giới khách quan, có
nghĩa là phạm vi phản ánh của văn học bao gồm tất cả những gì có trong thực tế
khách quan. Hiện thực là cội nguồn sản sinh ra các sáng tác văn học và đồng
thời là chìa khóa giải thích những hiện tượng phức tạp trong văn học. Cho nên
có thể nói tính hiện thực là thuộc tính tất yếu của văn học.
+ Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực
được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện thực
đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ
khác nhau. Hiện thực trong các tác phẩm văn chương có thể là hiện thực được hư
cấu.
- Văn học không
tách rời tư tưởng nhưng chính tư tưởng cũng bắt nguồn từ hiện thực, bởi ý thức
con người chính là sự phản ánh đời sống xã hội. Vì thế có thể khẳng định, bất
kì nền văn học nào cũng được hình thành trên một cơ sở hiện thực nhất định. Cho
dù là một tác phẩm lãng mạn hay một tác phẩm viễn tưởng thì văn học vẫn bắt
nguồn từ một hiện thực đời sống nhất định, mang dấu ấn của một thời đại nhất
định.
- Tuy nhiên, tính
hiện thực trong các tác phẩm văn học được thể hiện đậm nhạt khác nhau. Chỉ khi
nào nhà văn phản ánh đúng bản chất hay một vài khía cạnh của bản chất đời sống
thì hiện thực của tác phẩm ấy mới đạt đến tính chân thật.
- Tác phẩm có tính
hiện thực cao là tác phẩm phản ánh được quy luật phổ biến, những tất yếu khách
quan, những chân lí đời sống, những kiểu người và những quan hệ hiện thực cơ
bản của đời sống thể hiện qua những điển hình văn học.
LUYỆN ĐỀ
Đề số 1: “Khi cuộc sống
xuất hiện những nỗi niềm thiết tha không bút nào tả xiết đối với năng lực thông
thường, nghệ sĩ là người vượt qua giới hạn đó để đưa nỗi niềm kia vào hàng vĩnh
viễn”.
(Lí luận văn học, Phương Lựu
chủ biên, NXB Giáo dục, 2004, tr.251)
Anh/Chị hiểu nhận định trên như thế nào? Qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
(trích Chinh phụ ngâm – Đặng Trần
Côn, Đoàn Thị Điểm) và Trao duyên
(trích Truyện Kiều – Nguyễn Du), hãy
làm sáng tỏ nhận định.
1. Giải thích
- Những nỗi niềm thiết tha: những cảm xúc mãnh liệt (sự đồng
cảm, tình yêu thương, nỗi căm giận...)
- Năng lực thông thường: khả năng diễn tả thông thường của
con người.
- Vượt qua giới hạn: khả năng vượt qua năng lực thông thường
bằng trái tim và tài năng nghệ thuật.
=> Khi hiện thực đời sống nảy sinh những cảm xúc mãnh
liệt, những vấn đề nhức nhối, những tình cảm vượt qua khả năng diễn tả thông
thường thì người nghệ sĩ một mặt cảm nhận sâu sắc những nỗi niềm đó bằng trái
tim mình. Mặt khác, bằng tài năng nghệ thuật xuất sắc, họ thể hiện được những
cảm xúc mãnh liệt đó qua ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật... khiến nỗi niềm đó
trở nên bất tử. Điều này là kết quả của tâm huyết và tài năng của người nghệ
sĩ.
2. Lí giải
- Nhận định trên thể hiện mối quan hệ giữa văn học và hiện
thực.
- Văn học vừa phản ánh những tình cảm mãnh liệt của đời sống
con người vừa thể hiện tài năng và tâm hồn người nghệ sĩ trong việc cảm thấu
những nỗi niềm thiết tha và biến nỗi
niềm thiết tha thành bất tử.
(Học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học để lí giải ngắn
gọn)
3. Phân tích, chứng minh
3.1.
Những nỗi niềm thiết tha không bút nào tả xiết đối với năng lực thông
thường:
- Qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: đó là
nỗi niềm của những người phụ nữ trong một xã hội bất công, không trân trọng
quyền sống và quyền hạnh phúc của lứa đôi, là nỗi nhớ nhung, sầu muộn, lo lắng,
cô đơn của người chinh phụ khi chồng đi chinh chiến...
- Qua đoạn trích Trao duyên: đó là nỗi đau như đứt ruột của
người con gái chung tình nhưng lại phải trao duyên, là nỗi xót xa tủi hận khi
Kiều luôn luôn mặc cảm mình là kẻ bội ước, phụ tình...
(Thí sinh phân tích dẫn chứng làm sáng tỏ)
3.2.
Người nghệ sĩ vượt qua giới hạn để đưa nỗi niềm kia vào hàng vĩnh viễn:
-
Qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ Đặng Trần Côn, Đoàn Thị
Điểm:
+ Tác giả đã thấu hiểu tột cùng nỗi lòng người chinh phụ và đồng cảm với khát khao hạnh phúc
lứa đôi của nguời phụ nữ. Tác giả gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa chia
rẽ tình cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi...
+ Đoạn thơ sử dụng độc thoại nội tâm, điệp ngữ, nghệ thuật
miêu tả tâm lí ...
-
Qua đoạn trích Trao duyên Nguyễn Du:
+ Tác giả đã cảm thấu được những bi kịch của nàng Kiều. Tác
giả đã viết về sự việc trao duyên của Kiều không phải với tư cách của người
ngoài cuộc mà với tư cách của người trong cuộc… Ông như đứt từng khúc ruột cùng
nỗi đau của Kiều…, đúng như Mộng Liên Đường chủ nhân nhận xét: Nguyễn Du viết
Kiều như có máu rỏ trên đầu ngòi bút, nước mắt thấm qua tờ giấy.
+ Đoạn thơ sử dụng
bút pháp ước lệ, sử dụng ngôn ngữ tinh tế, miêu tả nội tâm nhân vật thông qua
ngôn ngữ đối thoại, nghệ thuật tả cảnh, ngụ tình.
(Thí sinh phân tích dẫn chứng làm sáng tỏ)
4. Bình luận
- Đặt trong bối cảnh văn học Trung đại, khi vấn đề cá nhân,
quyền sống của mỗi cá thể còn ít được nhắc đến, chúng ta có thể thấy bằng tâm huyết và tài năng vượt bậc, Nguyễn Du,
Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm đã vượt qua giới hạn để đưa nỗi niềm kia vào hàng
vĩnh viễn.
- Bài học đối với người sáng tạo: phải sống sâu sắc với cuộc
sống và thời đại để thấu hiểu, rung cảm được những nỗi niềm nhức nhối của nhân
sinh, đồng thời cần có tài năng để có thể biến những cảm xúc đó thành bất tử.
- Bài học đối với người đọc: cần trở thành người đồng sáng
tạo với tác giả, bởi những cảm xúc mãnh liệt của nhân sinh sẽ không thể nào trở
thành vĩnh viễn nếu người đọc tiếp xúc với tác phẩm bằng tâm hồn vô cảm và một
vốn sống cạn nông.
Đề số 2:
Có ý kiến cho rằng “Không một ý định tốt đẹp nào có thể biện minh được cho nhà
văn, nếu vì lí do muốn làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn lên, anh ta đã xuyên tạc
nó: anh ta đã viết ra không phải là những cái nhìn thấy mà là những cái muốn
thấy”. (Baklanôp – nhà văn Nga)
Anh
(chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên và từ đó liên hệ đến trào
lưu văn học hiện thực 1930-1945.
1. Giải thích
- Xuyên tạc hiện thực: phản ánh sai hiện thực một cách có dụng ý.
- Viết ra không phải là những cái nhìn thấy mà là những cái muốn
thấy: phản ánh hiện thực theo ý muốn chủ quan của nhà văn.
- Hàm ý của lời phát biểu: Bày tỏ quan điểm không đồng tình
trước hiện tượng nhà văn lạm dụng việc “tô hồng” hiện thực.
2. Lí giải
- Phản ánh chân thực, chính xác thực tế đời sống luôn là đòi hỏi
hàng đầu đối với người cầm bút.
- Yêu cầu với tác phẩm văn học: yêu cầu về tính chân thực trong
phản ánh; yêu cầu về sự thống nhất giữa chân lí nghệ thuật và chân lí đời sống;
chức năng văn học (đặc biệt là chức năng giáo dục và nhận thức); vai trò của
nhà văn khi mô tả hiện thực...
- Nếu nhà văn “tô hồng” hiện thực sẽ dẫn đến việc làm người đọc
ngộ nhận và ảo tưởng về thực tế xã hội mà mình đang sống, khiến họ không còn ý
thức đấu tranh để cải tạo nó, làm cho nó ngày càng tốt hơn lên... Nhà văn “viết
ra không phải là những cái nhìn thấy mà là những cái muốn thấy” là một hình
thức phản ánh không chân thực, thiếu chính xác nên sẽ gây ra những tác dụng
tiêu cực đối với người đọc.
3. Phân tích, chứng
minh
Trong quá trình triển khai luận điểm, học sinh
có thể lấy một số tác phẩm văn học lãng mạn 1930 - 1945 để làm dẫn chứng.
- Văn học hiện thực 1930 - 1945 đã phản ánh thực tế đời sống
lịch sử xã hội Việt Nam trước Cách mạng một cách khá sâu sắc và chính xác (làm
tốt việc “viết cái nhìn thấy” - học sinh lấy dẫn chứng)
- Tuy nhiên, nhìn chung các nhà văn hiện thực nói trên chưa cho
người đọc nhận ra được tương lai của một xã hội mới (chưa viết tốt “cái muốn
thấy” - Học sinh lấy dẫn chứng)
4. Bình luận
- Sự phản ánh trong văn học bao giờ cũng gắn với tính chủ quan,
tính sáng tạo của người nghệ sĩ (tức là gắn với việc viết “cái muốn thấy”). Do
đó, nội dung lời phát biểu trên chỉ đúng đối với những trường hợp nhà văn lạm
dụng việc “tô hồng” đến mức xuyên tạc hiện thực.
- Trừ trường hợp "tô hồng" đến mức xuyên tạc như đã
nêu, việc viết "cái muốn thấy" luôn là một yêu cầu đặt ra đối với tác
phẩm văn học chân chính; miễn là những gì nhà văn thể hiện phải dựa trên cơ sở
nhận thức chính xác và sâu sắc qui luật vận động tất yếu của xã hội.
- Bài học với người sáng tác và tiếp nhận: