1. Ngôn từ là chất liệu xây dựng
hình tượng của văn học
Nghệ thuật nói chung đều phản ánh cuộc sống con người nhưng mỗi ngành nghệ
thuật có một chất liệu riêng. Hội họa dùng màu sắc, đường nét… âm nhạc diễn tả
bằng âm thanh, tiết tấu… điêu khắc dùng chất liệu (kim loại, đá, gỗ…) tạo nên
hình khối, đường nét v.v… Còn văn học phải diễn tả bằng ngôn từ. Mỗi tác phẩm
văn học phải được gắn liền với một thứ ngôn ngữ và văn tự (gốc) nhất định. Ngôn
ngữ, văn tự là công cụ của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân được ca ngợi là bậc thầy
về ngôn ngữ. Văn của ông là tờ hoa, là trang văn. Hồ Chí Minh viết văn làm thơ
bằng tiếng mẹ đẻ, bằng tiếng Pháp, bằng chữ Hán.
2. Những đặc điểm của ngôn từ văn học
- Nhà văn nhà thơ phải sử dụng
ngôn từ và trau chuốt nó, tạo thành một thứ ngôn ngữ văn chương giàu có, sang
trọng, đẹp đẽ. Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm sau:
– Tính hệ thống
– Tính chính xác
– Tính truyền cảm
– Tính hình tượng
– Tính hàm súc, đa nghĩa
– Tính cá thể hoá
Trong đó, tính chính xác, tính
truyền cảm, tính hình tượng là cực kỳ quan trọng. Nói rằng “Văn hoa dã chất chi
đối”, “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” là như vậy. Kim Trọng khen Kiều
khi nàng làm một bài thơ viết lên bức tranh Kim Trọng mới vẽ:
“Khen
tài nhả ngọc phun châu,
Nàng
Ban, ả Tạ cũng đâu thế này!”
Nhà văn sử dụng ngôn từ để xây
dựng hình tượng văn học. Vì thế đọc sách hoặc phân tích thơ văn không được
thoát li văn bản và ngôn từ.
Ngoài ra, ngôn từ còn phải có
tính trong sáng, phù hợp chuẩn mực toàn dân và có tính mới lạ, hấp dẫn.
3. Tính chất “phi vật thể” của chất
liệu ngôn từ và khả năng diễn tả đặc biệt phong phú của nghệ thuật ngôn từ
- Xem tranh xem ti vi… đã thấy
được cụ thể cảnh vật, sự việc biểu hiện. Đọc văn, ta phải tưởng tượng, liên tưởng,
suy luận, cảm xúc với tất cả mọi giác quan và tâm hồn, mới hình dung được cảnh
vật, sự việc. Điều đó nói lên rằng, ngôn từ mang tính chất “phi vật thể”. Con
chứ đấy, câu thơ đấy nhưng không phải ai cũng hiểu và cảm như nhau.
- Ngôn từ có sức mạnh vạn năng,
có thể diễn tả sự việc theo dòng chảy lịch sử qua hàng trăm năm, hàng vạn năm
trên một không gian hữu hạn hoặc rộng lớn vô hạn.
- Ngôn từ còn có khả năng diễn
tả những rung động biến thái của tâm hồn con người. Thật là kỳ diệu khi Nguyễn
Trãi viết:
“Ngư
ca tam xướng yên hồ khoát,
Mục đích nhất thanh thiên nguyệt cao!”
(Ức Trai thi
tập)
Văn học là sự thể hiện tinh tế
tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng, quan điểm và lý tưởng thẩm mĩ của
nhà văn đối với con người và cuộc sống. Mỗi trang văn, mỗi bài thơ (đích thực)
dù nói về gì, đề tài gì rộng lớn hay bé nhỏ đều thể hiện lòng yêu, sự ghét của
tác giả, thể hiện một quan điểm nhân sinh hoặc lên án cái ác, hoặc ca ngợi tình
yêu, đưa tới sự hướng thiện, cái cao cả, cái đẹp của thiên nhiên và con người.
Văn học mang tính khuynh hướng rõ rệt.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch
mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được
(Nguyễn
Trãi)
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân…
(Nguyệt
Cầm – Xuân Diệu)
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên”
(“Mùa
thu tới” – Tố Hữu)
Nếu không hiểu được ngôn từ sao có thể cảm
được cái hay của hai câu thơ trên?
4. Văn học (nghệ thuật ngôn từ) là
một lĩnh vực độc đáo
- Văn học nghệ thuật bao gồm: tác phẩm,
nhà văn và quá trình sáng tác, hiện thực đời sống, bạn đọc và quá trình tiếp
nhận.
- Sự độc đáo của tác phẩm văn chương được
thể hiện qua các yếu tố:
+ Về tác phẩm: Tác phẩm độc đáo phải là “một
phát minh về hình thức và khám phá về nội dung”
+ Về nhà văn: Để có một tác phẩm văn học
độc đáo, nhà văn phải có phong cách riêng. Nghĩa là phải có những nét riêng độc
đáo trong trong nhận thức, trong phản ánh cuộc sống, trong sáng tạo hình thức
nghệ thuật và để lại dấu ấn riêng trên từng trang sách.
+ Về hiện thực đời sống: Hiện thực trong
tác phẩm văn học vừa giống như ngoài đời vừa không giống và phải là một hiện
thực độc đáo được phản ánh qua cái nhìn độc đáo của nhà văn.
(Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng
bằng vật liệu mượn ở thực tại nhưng nghệ sĩ không ghi lại những cái đã có rồi
mà muốn nói một điều gì mới mẻ).
+ Về người đọc và quá trình tiếp nhận: Người
đọc luôn đòi hỏi văn học nghệ thuật phải độc đáo, mới lạ. Họ sẽ nhàm chán nếu
cứ gặp lại cái cũ lỗi thời. Người đọc cũng phải có cái nhìn độc đáo mới có thể khám phá hết cái độc đáo của nhà văn và
tác phẩm. Càng có năng lực thẩm mỹ thì người đọc càng có cơ hội tìm thấy tiếng
nói độc đáo của nhà văn.
ð Nghệ thuật là lĩnh vực độc đáo là nói đến
bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật.
LUYỆN ĐỀ
Đề số 1: Em hãy lập dàn ý có đề bài sau: “Ở
đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Văn không linh hoạt gọi là
văn cứng đơ thấp khớp”. Bình luận ý kiến trên đây của nhà văn Nguyễn Tuân và bằng
thực tế ”cảm nhận văn học của mình hãy làm rõ những vấn đề mà nhà văn đặt ra.
1. Giải thích:
-Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống hiện thực qua ngôn ngữ
+ Văn chương chính là tiếng nói lớn của tâm hồn – dù ở bất cứ hoàn cảnh
nào, văn chương cũng muốn đem cái đẹp vào cuộc sống. Thế giới quanh ta thật bao
la với muôn nghìn sự kiện luôn sôi động.
+ Và văn học thật sự là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống nhưng là sự
phản ánh có chọn lọc.
+ Thế giới khách quan được nhìn nhận qua thế giới chủ quan của tác giả, hiện
thực sinh động được khái quát cụ thể, độc đáo trong tác phẩm văn chương.
+ Một nhà văn chân chính được ví với con ong miệt mài đi hút nhụy hoa,
sương đêm lắng đọng để làm nên mật ngọt cho đời, và ngôn ngữ là phương diện thiết
yếu giúp nhà văn sản sinh ra hương mật văn chương.
+Văn chương luôn luôn bắt nguồn từ gốc rễ của lao động và qua lao động, con
người sáng tạo ra ngôn ngữ. Con người vẫn luôn luôn dùng ngôn ngữ để giao tiếp,
qua cách nói, viết thư, trao đổi
=> Văn chương là một
loại hình nghệ thuật ra đời giúp con người tìm đến với nhau. Nhà văn đã thông
qua tác phẩm để bộc bạch bày tỏ tâm tư, ước vọng với cuộc đời và con người
trong xã hội.
- Ngôn ngữ sáng tạo trong văn chương bắt nguồn từ thực tiễn và lao động
+ Ngôn ngữ của cuộc đời thường là một loại quặng con lẫn biết bao tạp chất.
Nhà văn là người thợ cần mẫn làm công việc của người tình nguyện loại bỏ những
chất thải để kết đúc lại thứ kim loại hoàn hảo hơn, đủ sức lóng lánh phản chiếu
tâm hồn của con người.
+ Văn chương nếu chỉ là lập lại thì sẽ không tồn tại được lâu dài. Nhà văn
phải sống cuộc sống với nhân dân, chia sẻ niềm vui, ước vọng với họ thì mới nói
lên được tiếng nói của nhân dân.
Cuộc đời là trường học của những nhà văn tâm huyết, cuộc đời sẽ giúp nhân
văn tích luỹ được vốn sống, ngôn ngữ phong phú. Tư tưởng dù có vĩ đại bao nhiêu
mà nghèo nàn biểu hiện thì cũng trở nên vô ích.
+ Nội dung phải phù hợp với hình thức. Hai yếu tố thống nhất sẽ làm nên một
tác phẩm hoàn chỉnh, cũng như tư tưởng lớn được diễn đạt với một vốn ngôn ngữ
đa dạng, hình thức thích hợp.
+Giàu ngôn ngữ thì vẫn sẽ hay” nhưng có vốn mà không biết sử dụng thì chỉ
như nhà giàu giữ của” Ngôn ngữ của cuộc đời thường vào tác phẩm phải là những
dòng ngôn ngữ văn chương giàu tình cảm, giàu sức biểu hiện
-Văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống nhưng không có nghĩa là bê
nguyên cuộc sống vào tác phẩm, mà văn chương là tái hiện và tái tạo cuộc sống.
+ Nhà văn phải nói lên khát vọng của nhân dân, dự báo mọi điều đang đến và
sẽ đến trong tương lai.
+ Do đó, văn chương là loại hình nghệ thuật tuyệt vời nhất, đậm đà tình cảm
nhất. Muốn văn chương thật gần gũi với quần chúng, nhà văn phải nói lên được
khát vọng của họ với cuộc đời, sao cho mỗi tác phẩm đều đem đến cái đẹp cho cuộc
đời.
=> “Văn phải linh hoạt. Văn
không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”. Sự linh hoạt của văn chương tức
là sự linh hoạt của nhà văn khi lao động, sáng tạo nghệ thuật, sao cho mỗi hình
tượng nghệ thuật đều có sức trường tồn với thời gian.
2. Phân tích, chứng minh
- Phân tích tác phẩm văn học để chứng minh
3. Bình luận:
-Ngôn ngữ trong văn chương đa dạng, phức tạp như chính cuộc sống hằng ngày.
Qua bàn tay tôi luyện của nhà văn, ngôn ngữ ấy làm nên sự phong phú của văn
chương. Phương tiện diễn đạt quyết định cách thành hình của tác phẩm nhà văn phải
rèn luyện, học hỏi không ngừng để ngôn ngữ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực và
sắc bén trong tay mình.
-Lời khẳng định của Nguyễn Tuân như là một lời khuyên đáng quý cho những
người bước vào ngưỡng cửa viết văn và cả cho những ai yêu thích sự sáng tạo văn
chương.
Đề bài: Bình luận ý kiến của nhà
văn Nguyên Tuân “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo rạ ngôn ngữ”.
Âm nhạc sẽ không xuất hiện và sẽ không làm rung động lòng người nếu cuộc sống
không kỳ diệu với muôn nghìn âm thanh trầm bổng. Âm thanh là phương tiện biểu
hiện của âm nhạc cũng như ngôn ngữ làm nên thế giới văn chương. Nhà văn là kỹ
sư tâm hồn với chất liệu ngôn ngữ trong tay phải học hỏi, sáng tạo để cấu thành
tác phẩm. Tác phẩm có thể trở thành vốn liếng tinh thần quý báu của nhân loại
hay không tuỳ thuộc vào nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật biểu hiện.
Nghệ thuật văn chương là nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Tìm hiểu, khám phá và sáng
tạo không ngừng để mỗi dòng, mỗi chữ viết ra đều được chắt lọc tinh tế, độc đáo
đủ sức thuyết phục lòng người và lắng đọng lại với thời gian, cuộc sống. Nhà
văn Nguyễn Tuân khẳng định với những người viết văn trẻ: “Ở đâu có lao động thì
ở đó có sáng tạo rạ ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân
mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo. Không nên ăn bám vào người
khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng
có sáng tạo thỉ văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng thỉ
chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào dể chỗ nào phải
dúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ
thấp khớp”.
Văn chương là tiếng
nói của tâm hồn – dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, văn chương cũng muốn đem cái đẹp
vào cuộc sống. Thế giới bao la với muôn nghìn sự kiện luôn sôi động, văn học là
tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống nhưng là sự phản ánh có chọn lọc. Thế giới
khách quan được nhìn qua thế giới chủ quan của tác giả, hiện thực sinh động được
khái quát lên cụ thể, độc đáo trong tác phẩm văn chương. Nhà văn chân chính làm
con ong mỉệt mài đi hút nhụy hoa, sương đêm lắng đọng để làm nên mật ngọt cho đời
và ngôn ngữ là phương tiện thiết yếu giúp nhà văn sản sinh ra hương mật văn
chương. Bông hoa kia dù ngọt ngào hương sắc đến đâu, giọt sương đêm dù tinh sạch
hơn cả khí trời vẫn là vô dụng nếu chú ong không thể tạo. mật thơm lành. Văn
chương bắt nguồn từ lao động và qua lao động con người sáng tạo ra ngôn ngữ.
Con người dùng ngôn ngữ để giao tiếp, qua cách nói, viết thư, trao đổi – nhưng
cuộc sống vốn vận động và phát triển không ngừng, không chỉ dừng lại ở mức độ
giao tiếp, qua ấy ngôn ngữ được sử dụng đa – dạng hơn, mang tính thẩm mỹ cao
hơn, đó là ngôn ngữ văn chương. Tiếng nói tình cảm của con người mang nhiều sắc
thái, cung bậc khác nhau, ngôn ngữ cũng biến hóa kỳ diệu không ngừng để đáp ứng
được nhu cầu bày tỏ ấy. Từ thuở xa xưa, khi chưa có chữ viết, dân gian ta đã
sáng tạo nên dòng văn chương truyền miệng và từ đó đến nay, những tác phẩm dân
gian vẫn trường tồn. Thế mới biết sức sống của ngôn ngữ mãnh liệt đến nhường
nào! Lao động giúp con người tồn tại và lao động giúp con người sáng tạo ra
ngôn ngữ – để giao tiếp bày tỏ cảm xúc. Nhưng ngôn ngữ từ thuở mới khai sinh chỉ
là một thứ tiếng nói thô sơ, tình cảm của nhân loại? Văn chương là một loại
hình nghệ thuật ra đời giúp con người tìm đến với nhau. Nhà văn qua tác phẩm
bày tỏ tâm tư, ước vọng với cuộc đời và con người trong xã hội.
Ngôn ngữ của cuộc đời thường là một loại quặng còn lẫn
tạp chất – nhà văn làm công việc của người tình nguyện loại bỏ những chất thừa
thãi để đúc kết lại thứ kim loại hoàn hảo hơn, đủ sức lóng lánh phản chiếu tâm
hồn. Nhà văn Nguyễn Du là đứa con máu thịt của dân tộc Việt Nam, tác giả sinh
ra, lớn lên trong lòng tiếng Việt, ấp ủ, nuôi dưỡng “nỗi đau đời” để tạo nên một
tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” bất diệt. “Truyện Kiều” cũng là ngôn ngữ của
nhân dân, thứ ngôn ngữ mà chúng ta hiểu và cảm thông sâu sắc. Thế nhưng đã mấy
thế kỷ trôi qua, “Truyện Kiều” vẫn được đánh giá làm một viên ngọc toàn bích về
nghệ thuật, không một vết xước, không chút bụi mờ? Phải chăng Nguyễn Du đã làm
công việc gạn lọc ngôn ngữ đời thường, tinh luyện, nâng niu từng chữ, từng câu
để tạo nên vẻ đẹp tuyệt diệu đó? Nhưng dù có gạn lọc đến đâu, có đãi cát tìm
vàng đi chăng nữa thì vốn liếng ấy cũng là ít ỏi so với một tác phẩm vĩ đại,
cái tài, cái khổ luyện của Tố Như là ở chỗ tác giả “không chỉ học tập ngôn ngữ
của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ có sáng tạo”. Quả thật, nếu
không làm được công việc đó “Truyện Kiều” sẽ không được truyền tụng và hấp dẫn
đến tận hôm nay – những năm cuối của thế kỷ XX nhìn lại chặng đường “Đoạn trường
tân thanh” đã đi qua với bao thăng trầm, biến đổi. Hai trăm năm, một quãng thời
gian đủ đế ngôn ngữ phát triển và hoàn thiện, tuyệt vời sao, trong “Truyện Kiều”
vẫn khiến muôn thế hệ phải nhỏ những giọt lệ xót thương nàng Kiều. Ngôn ngữ
“Truyện Kiều” đầy sức lay động, thuyết phục đến mức không thể nào thay thế được
nữa. Nguyễn Du đã sử dụng và phát triển, sáng tạo ngôn ngừ có sức sống lâu bền,
hoàn hảo nhất. Từ một câu thơ chừ Hán của Thôi Hiệu, Nguyễn Du chuyển sang chữ
Nôm đã trở nên đậm đà, gần gũi với dân tộc:
“Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
(Thôi Hiệu)
“Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ấy còn cười gió đông.”
(Nguyễn Du)
Câu thơ chữ Hán là tâm trạng của Thôi Hiệu trước cảnh
cũ nhớ mà vào tay Tố Như bỗng bồi hồi, xao xuyến tâm trạng chàng Kim nhớ người
yêu. Tài năng của nhà thơ không chỉ là phát hiện, sáng tạo ra cái mới mà còn là
cách sử dụng tài tình, biến cái cũ thành cái mới thành sắc thái nhuần nhị hơn,
biểu cảm hơn. Nhưng học tập không có nghĩa là “bám vào ngôn ngữ của ngườị
khác”. Cuộc sống, tình cảm con người vốn phong phú, đa dạng đòi hỏi phải có nhiều
cách biểu hiện khác nhau. Ngôn ngữ văn chương là tiếng nói của riêng mỗi nhà
văn nói riêng về cuộc đời – nó phải mang phong cách thuyết phục người đọc. Cùng
một sự việc nhưng ở một góc độ sẽ có cách nhìn khác nhau – văn chương nếu chỉ
là lập lại thì sẽ không tồn tại được lâu dài. Nhà văn phải sống cuộc sống với
nhân dân, chia sẻ cùng nhân dân. Cuộc đời là trường học của những nhà tâm huyết
– cuộc đời sẽ giúp nhà văn tích lũy được vốn sống, vốn ngôn ngữ phong phú. Tư
tưởng này dù có vĩ đại bao nhiêu mà nghèo nàn biểu hiện thì cũng trở nên vô
ích. Nội dung phải phù hợp với hình thức. Hai yếu tố thống nhất sẽ làm nên một
tác phẩm hoàn chỉnh nếu tư tưởng lớn được diễn đat với một vốn ngôn từ đa dạng,
hình thức thích hợp. Cùng một giọt nước mắt của nàng Kiều nhưng mỗi lần nàng
khóc Tố Như lại có một cách diễn đạt khác nhau. Và cứ thế, từ đầu đến cuối tác
phẩm, người đọc bị cuốn hút, say mê, bị dằn vặt nỗi đau nàng Kiều mà mỗi lần
đau là mỗi lần cay đắng khác nhau, muôn hình muồn vẻ, phức tạp như chính cuộc sống
thực. Cũng là niềm cô đơn Kiều trăn trở, day dứt thâu đêm – nhưng trong mỗi
hoàn cảnh, sự cô quạnh đó nhuốm sắc thái thật riêng biệt:
“Một mình mình biết một mình mình hay”.
Câu thơ tám chữ với bốn lần lập lại chữ “mình” sao
chua xót, bẽ bàng đến thế! Ngôn ngữ trong tay Nguyễn Du biến hóa diệu kỳ như vẻ
đẹp tiếng Việt đã thâu tóm dưới đầu ngọn bút.
“Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình”
Với những chữ “riêng” lập lại đến đôi ba lần, Tố Như
làm người đọc phải giật mình đến hoảng hốt vì thương cho phận nàng Kiều đơn lẻ.
Ngôn ngữ trong “Đoạn trường tân thanh” chẳng những giàu mà đẹp đến mức diệu kỳ.
Nếu Nguyễn Du không tích lũy được cho mình một “đội quân từ ngữ” hoàn chỉnh đến
thế thì “Truyện Kiều” rất dễ làm người đọc nhàm chán biết bao. “Giàu ngôn ngữ
thì văn sẽ hay nhưng có vốn mà không biết sử dụng thỉ chi như nhà giàu giữ của”.
Ngôn ngữ của cuộc đời thường vào tác phẩm phải là những dòng ngôn ngữ văn
chương giàu tình cảm, giàu sức biểu hiện. Có những từ là “nhãn tự” của thơ thì
mới có những khố thơ, bài thơ xuất thần, độc đáo. Nhầ văn làm công việc chọn lựa
ngôn từ sao cho từ nào đắc ý nhất, đúng chỗ của nó nhất. Khi miêu tả Thúy Kiều,
với đôi ba nét Nguyễn Du đã báo trước số phận của nàng.
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém’xanh”
Những sinh vật vô tri làm sao có thể “ghen”, “hờn” trước
nhan sắc còn người? Hay phải chăng định mệnh trớ trêu đã để mắt tới người con
gái tài sắc vẹn toàn ấy. Chỉ dùng một hai chũrthôi nhưng đủ sức diễn tả, dự báo
cả cuộc đời nhân vật – thế chẳng là tài tình lắm sao! Thúy Kiều nhờ Thúy Vân nối
duyên Kim Trọng thay mình, một câu chuyện khác thường như vậy không thể nào hẩy
hơn.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Tiếng “cậy” thân thương mà chứa đựng cả lòng tin, sự
nhờ vã thiết tha nhất – không thể chối từ trước niềm mong mỏi của nàng. Quả thật.
Nguyễn Du đã đạt đến mức bậc thầy của ngôn ngữ, tiếng Việt trong tay tác giả được
sử dụng khéo léo, điêu luyện và chính xác đến khôn cùng. Điều đó lý giải tại
sao “Truyện Kiều” trường tồn trong lòng dân tộc hàng bao thế kỷ:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.”
(Độc
Tiểu Thanh Ký)
Tiếng “khấp” của người văn hào vĩ đại Việt Nam vẫn
vang vọng hằng bao thế kỷ, đi giữa lòng người để nói về nỗi đau đời là “khấp”
và chất chứa trong tim. Nhà văn không sử dụng tiếng “khốc” mà lại là “khấp” tiếng
nức nở trong tâm hồn, mặn xót, tái tê – nước mắt chảy ngược vào hồn nên ngàn
năm còn thương, còn xót Tố Như để lại cho mai sau một di sản tinh thần đồ sộ và
phong phú, đọc văn của ông ta không thể lơ là khi sử dụng tiếng Việt. Ngôn ngữ
làm nên văn chương và văn chương có sức mạnh xây dựng hay tàn phá con người –
phải trân trọng và biết sử dụng ngôn ngữ thì mới có thể sáng tác nên những tác
phẩm hay, độc đáo.
Văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống nhưng không
có nghĩa là bê nguyên cuộc sống vào tác phẩm, mà văn chương là tái hiện và tái
tạo cuộc sống.
Nhà văn phải nói lên khát vọng của nhân dân, dự báo mọi
điều đang đến và sẽ đến trong tương lai. Do đó văn chương là loại hình nghệ thuật
tuyệt vời nhất, đậm đà tình cảm nhất. Muốn văn chương thật gần gũi với công
chúng, nhà văn phải nói lên được khát vọng của họ với cuộc đời, sao cho mỗi tác
phẩm đều đem đến cái đẹp cho cuộc đời. “Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt
gọi là văn cứng đơ thấp khớp”. Sự linh hoạt của văn chương tức là sự linh hoạt
của nhà văn khi lao động, sáng tạo nghệ thuật – sao cho mỗi hình tượng nghệ thuật
đều có sức trường tồn với thời gian.
Văn chương nếu là bê nguyên cuộc đời thật vào tác phẩm
thì chẳng có gì đáng nói, nó phải là “người lạ mà quen biết” như Biêlinski đã từng
nói. Nhà văn, nhà thơ cảm nhận cuộc sống theo riêng mình, đôi khi điều đó trái
với quy luật nhưng lại phù hợp với tâm hồn người, nó được bạn đọc chấp nhận:
“Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.”
(Trần
Đăng Khoa)
Với các cảm nhận độc đáo của mình, Trần Đăng Khoa đã
táo bạo nghe âm thanh (thính giác) bằng đôi mắt (thị giác). “Tiếng rơi rất mỏng”
như vết cắt hết sức nhẹ nhàng của chiều phiến lá “rơi nghiêng” – đêm sau chiến
tranh không gian lại yên tĩnh đến thế ư? Cách diễn đạt, sử dụng ngôn từ mới mẻ
của nhà thơ đã làm nên một hiện tượng ngôn ngữ thật đẹp.
Ngôn ngữ trong văn chương đa dạng, phức tạp như chính
cuộc sống hàng ngày – qua bàn tay tôi luyện của các nhà văn, ngôn ngữ ấy làm
nên sự phon phú của văn chương. Phương tiện diễn đạt quyết định cách thành hình
của tác phẩm – và nhà văn phải rèn luyện, học hỏi không ngừng để ngôn ngừ trở
thành công cụ hỗ trợ đắc lực và sắc bén trong tay mình. Lời khẳng định của Nguyễn
Tuân là một lời khuyên đáng quý cho những người bước vào ngưỡng cửa viết văn và
cả cho những ai’yêu thích sự sáng tạo văn chương. Nhưng điều đó không có nghĩa
là rơi vào chủ nghĩa hình thức, bỏ quên nội dung tư tưởng tác phẩm – mà một tác
phẩm hay thật sự sẽ kết hợp hoàn hảo giữa nội dung và hình thức nghệ thuật –
sao cho đó là những bông hoa hương sắc vẹn toàn. Và muốn nghiên cứu ngôn ngữ
văn chương, ta sẽ luôn nhớ đến lời khuyên của nhà văn “Vang bóng một thời”
“Ở đâu có lao động thì ở dó có sáng
tạo ra ngôn ngữ…”