Các nhân tố trong đời sống văn học bao gồm: Tác giả, tác phẩm, người tiếp nhận
Các nhân tố ấy luôn có sự tác động lẫn nhau, kích thích
nhau để cùng phát triển. Trong đời sống văn học không thể thiếu bất kì một nhân
tố nào. Nói đến tiếp nhận văn học là nhắc đến bạn đọc (người tiếp nhận).
1. Tiếp nhận trong đời sống văn học
- Cũng như bất cứ một loại hình nghệ thuật
nào khác, trong đời sống văn học luôn có mối liên hệ qua lại giữa sáng tạo,
truyền bá và tiếp nhận. Nếu tác giả là người sáng tạo văn học thì tác phẩm là
phương tiện truyền bá văn học và người đọc là chủ thể tiếp nhận văn học. Không
có người đọc, không có công chúng thì những cố gắng của tác giả, mọi giá trị của
tác phẩm cũng trở nên vô nghĩa.
- Cần phân biệt tiếp
nhận và đọc. Tiếp nhận rộng hơn đọc, vì trước khi có chữ viết và công nghệ in ấn,
tác phẩm văn học đã được truyền miệng. Ngày nay, khi tác phẩm văn học chủ yếu
được in ra, nhiều người vẫn tiếp nhận văn học không phải do đọc bằng mắt mà
nghe bằng tai, như nghe chính tác giả đọc thơ, nghe “đọc truyện đêm khuya” trên
đài phát thanh... Tiếp nhận văn học chính là quá trình người đọc hoà mình vào
tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng
ngôn từ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ
của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá
và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận
sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật, dõi theo diễn biến của câu
chuyện, làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động,
đầy sức cuốn hút. Như vậy, tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm
giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thànhthế giới nghệ thuật trong tâm
trí mình.
2. Tính chất tiếp nhận văn học
-
Tiếp nhận văn học thực chất là một
quá trình giao tiếp. Sự giao tiếp giữa tác giả với người tiếp nhận là mối quan
hệ giữa người nói và người nghe, người viết và người đọc,
người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thông. Bao giờ người viết cũng mong người đọc
hiểu mình, cảm nhận được những điều mình muốn gửi gắm, kí thác. Cao Bá Quát từng
nói: “Xưa nay, nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời
không gì bằng sự gặp gỡ”. Gặp gỡ, đồng điệu hoàn toàn là điều vô cùng khó khăn.
Song dẫu không có được sự gặp gỡ hoàn toàn, tác giả và người đọc thường vẫn có
được sự tri âm nhất định ở một số khía cạnh nào đó, một vài suy nghĩ nào đó. Đọc
Truyện Kiều, người không tán thành quan niệm “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” của Nguyễn
Du vẫn có thể chia sẻ với ông nỗi đau nhân thế; người không bằng lòng việc tác
giả để cho Từ Hải ra hàng vẫn có thể tâm đắc với những trang ngợi ca người anh
hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu - Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”,...
-
Trong sự giao tiếp giữa tác phẩm với
độc giả, cần chú ý tính chất cá thể hoá, tính
chủ động, tích cực của người tiếp nhận. Ở đây, năng lực, thị hiếu, sở thích của
cá nhân
đóng vai trò rất quan trọng; tuỳ theo lứa tuổi già hay trẻ, trình độ học vấn
cao hay thấp,
kinh nghiệm sống nhiều hay ít mà có kết quả tiếp nhận cụ thể, riêng biệt cho mỗi
người.
Thậm chí cùng một người, lúc nhỏ đọc tác phẩm ấy đánh giá khác, sau lớn lên
đánh giá
khác, về già lại đánh giá khác. Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm,
trong thị
hiếu thẩm mĩ càng làm cho sự tiếp nhận văn học mang đậm nét cá nhân và chính sự
chủ
động, tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống của tác phẩm. Tác
phẩm
văn học tuy miêu tả cuộc sống cụ thể, toàn vẹn, sinh động, nhưng vẫn còn rất
nhiều điều
mơ hồ, chưa rõ. Người đọc phải quan sát, tri giác để làm nổi lên những nét mờ,
khôi
phục những chỗ còn bỏ lửng, nhận ra mối liên hệ của những phần xa nhau, ý thức
được
sự chi phối của chỉnh thể đối với các bộ phận. Ở đây không chỉ có tác phẩm tác
động tới
người đọc, mà còn có việc tác động, tìm tòi của người đọc đối với văn bản. Thiếu
sự
tiếp nhận tích cực của người đọc thì tác phẩm chưa thể hiện lên thật sinh động,
đầy đặn,
hoàn chỉnh.
-
Tính đa dạng, không thống nhất cũng
là một điểm nổi bật trong sự giao tiếp của
người đọc với tác phẩm. Tính chất này bộc lộ ở chỗ cùng một tác phẩm nhưng cảm
thụ
và đánh giá của công chúng có thể rất khác nhau. Đọc Truyện Kiều, người thấy ở Thuý
Kiều tấm gương hiếu nghĩa, người coi nàng như là biểu tượng cho thân phận đau
khổ
của người phụ nữ,... Sự khác nhau trong cảm nhận, đánh giá
tác phẩm có nguyên nhân
ở cả tác phẩm và người đọc. Nội dung tác phẩm càng phong phú, hình tượng nghệ
thuật
càng phức tạp, ngôn từ càng đa nghĩa thì sự tiếp nhận của công chúng về tác phẩm
càng
lắm hình nhiều vẻ. Tuổi tác, kinh nghiệm sống, học vấn hay tâm trạng người đọc
cũng
tác động không nhỏ đến quá trình tiếp nhận tác phẩm. Chẳng hạn cùng đọc truyện
Bà
chúa tuyết của An-đéc-xen, trẻ em và người lớn đều thích thú, nhưng cách hiểu của
mỗi
người lại không giống nhau. Vẫn là bài Thơ duyên của Xuân Diệu nhưng khi buồn đọc
khác, khi vui đọc khác, khi đang yêu đọc khác. Điều đáng lưu ý là, dù cách hiểu
có khác
nhau, nhưng người đọc cần cố gắng để đạt tới một cách hiểu đúng về tác phẩm,
làm sao
để tác phẩm toả sáng đúng với giá trị thực của nó.
3. Các cấp độ tiếp nhận văn học
- Đọc và hiểu tác phẩm văn học là một hành động tự do, mỗi người có cách thức
riêng, tuỳ theo trình độ, thói quen, thị hiếu, sở thích của mình, nhưng nếu
nhìn nhận một
cách khái quát vẫn có thể thấy những cấp độ nhất định trong cách thức tiếp nhận
văn
học.
+ Cấp độ
1: Thứ nhất là cách cảm thụ chỉ tập trung
vào nội dung cụ thể, nội dung trực tiếp của tác phẩm, tức là xem tác phẩm kể
chuyện gì, có tình ý gì, các tình tiết diễn biến ra sao,
các nhân vật yêu ghét nhau thế nào, sống chết ra sao... Đó là cách tiếp nhận
văn học đơn
giản nhất nhưng cũng khá phổ biến.
+ Cấp độ
2: Là cách cảm thụ qua nội dung trực tiếp để
thấy nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ở đây người đọc có tư duy phân tích, khái
quát, biết từ những gì cụ thể, sinh động mà thấy vấn đề đặt ra và cách thức người
viết đánh giá, giải quyết vấn đề theo một khuynh hướng tư tưởng - tình cảm nào
đó.
+ Cấp độ
3: Là cách cảm thụ chú ý đến cả nội dung và
hình thức biểu hiện của tác phẩm, thấy cả giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật
của nó, cảm nhận được cái hấp dẫn, sinh động của đời sống được tái hiện, lại biết
thưởng thức cái hay, cái đẹp của câu chữ, kết cấu, loại thể, hình tượng..., qua
đó không chỉ thấy rõ ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm mà còn xem việc đọc
tác phẩm là cách để nghĩ, để cảm, để tự đối thoại với mình và đối thoại với tác
giả, suy tư về cuộc đời, từ đó tác động tích cực vào tiến trình đời sống.
-
Để tiếp nhận văn học
thực sự có hiệu quả, người đọc phải không ngừng nâng cao
trình độ hiểu biết của mình, tích luỹ kinh nghiệm tiếp nhận, biết trân trọng sản
phẩm
sáng tạo của một ý thức khác, lắng nghe một tiếng nói khác, làm quen với một
giá trị
văn hoá khác, tìm cách để hiểu tác phẩm một cách khách quan, toàn vẹn, nhờ thế
mà
làm phong phú thêm vốn cảm thụ của mình. Không nên thụ động mà phải tiếp nhận
văn
học một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp, cái
đúng. Thói
quen đọc - hiểu theo kiểu suy diễn tuỳ tiện chẳng những làm thui chột các giá
trị khách
quan vốn có của tác phẩm, mà còn làm nghèo năng lực tiếp nhận các tác phẩm mới,
lạ
và khó. Người ta bao giờ cũng có phát hiện mới về tác phẩm trên tầm cao của kiến
thức,
tình yêu thiết tha với cái đẹp, sự say mê và rung cảm mãnh liệt với văn chương.
Tóm lại: Giá trị của tác phẩm văn học không chỉ phụ thuộc vào tác giả (người
sáng tác) mà còn tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận của người đọc. Người đọc (người
tiếp nhận) không chỉ cần là tri âm tri kỉ với nhà văn mà còn tham gia vào tác
phẩm với vai trò là người đồng sáng tạo.
LUYỆN ĐỀ
Đề số 1: Có ý
kiến cho rằng: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự
bắt đầu”. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
1. Giải thích
- Khi tác phẩm kết thúc:
là khi tác giả đã hoàn thành tác phẩm cũng là khi người đọc đã đọc xong tác
phẩm.
- Ấy là lúc cuộc sống của nó
mới thực sự bắt đầu: nghĩa là lúc bấy giờ tác phẩm mới thực sự sống đời
sống của nó trong tâm trí người đọc, tác phẩm mới thực sự nhập vào đời sống
thông qua người đọc.
=> Ý kiến đề cập đến
vấn đề tiếp nhận văn học. Nó đề cao vai trò của chủ thể tiếp nhận là người đọc.
2. Lí giải
- Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của
ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên người ta gọi tác phẩm văn học là một
"văn bản mở". "Văn bản mở" nghĩa là tác phẩm gồm hai phần:
"phần cứng" là những con chữ bề mặt văn bản đang nằm im, "phần
mềm" là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa được xuất hiện trong quá trình tiếp
nhận. Vì thế, cái gọi là "tác phẩm văn học" chỉ thực sự tồn tại khi
nó biến thành cái "phần mềm" kia, còn nếu không nó trở thành
"quyển sách". Mà rõ ràng, ý muốn của nhà văn là truyền đến bạn đọc
những lẽ sống của đời chứ không phải để bán sách.
- Ngay từ x-a, Heghen trong Triết học tinh thần đã yêu cầu việc
xem xét tác phẩm trong hệ thống "tác giả — tác phẩm — người đọc" vì
ông cho rằng sự tồn tại của tác phẩm chỉ tồn tại trong ba yếu tố quan hệ hữu cơ
với nhau ấy thôi. Còn người Trung Quốc xưa, lại cho rằng tác phẩm tồn tại trong
lòng của ng-ời tri kỉ chứ không trên trang giấy; vì thế việc viết văn là việc
của tấm lòng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức
được về nó mà thôi. Người đọc là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách,
giúp nó sống lại và bước đi giữa cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong
lòng bạn đọc.Vì thế, mỗi tác phẩm là một tiếng mời gọi tha thiết tấm lòng bạn
đọc đến với mình, tri âm với mình để mình có được một đời sống mới. Sức sống
của tác phẩm không nằm ở lối ra lệnh của nhà binh hay truyền giáo của tu sĩ mà
nằm ở trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.
- Tuỳ từng tư tưởng, kinh nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác
phẩm có muôn ngàn cuộc sống khác nhau. Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là
nó. Sự thú vị trong đa dạng tiếp nhận cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng
tạo. Vì thế sức sáng tạo của nhà văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và
thế là nghệ thuật có sự sống vĩnh hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo
hay là chết.
3. Phân tích, chứng minh
Thí sinh cần phải minh hoạ bằng các tác phẩm văn học mà mình nắm
vững.
(Dưới đây là một vài ví dụ gợi ý)
- Đôn-ki-hô-tê: Người Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người
Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là
người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa hiện thực lại coi là biểu tượng của sự
suy vi một thời phong kiến đã qua. Vậy rõ ràng, những môi trường văn hoá khác
nhau tạo ra những "phạm trù hiểu" không cùng hướng. Ta coi tác phẩm
như cái đài nhiều dải tần, ai thích nghe sóng nào thì nghe, nhưng phải bắt đúng
dải sóng nếu không chỉ có tạp âm thôi. Vì thế, sự "đúng — sai" trong
tác phẩm là quy luật nội tại tất yếu của văn học, nó chỉ thúc đẩy sự sống của
tác phẩm trường tồn mà thôi. Vậy thì lịch sử văn học, xét đến cùng, là lịch sử
tiếp nhận văn học.
- Vãn cảnh của Hồ Chí Minh. Chữ "lưỡng" là từ chìa khoá
để khai mở bài thơ.
Xuân Diệu coi "lưỡng" ở đây là hai sự vô tình khép kín
một đời hoa, còn Trần Đình Sử coi "lưỡng" là phó từ, còn chủ ngữ hàm
ẩn"quyết định nghĩa" bài thơ là người tù Hồ Chí Minh, tự trách mình
vô tình. Thú vị nhất là Nguyễn Khắc Phi khi đưa ra quan niệm "lưỡng vô
tình" là sự trôi chảy liên tục, bất biến của thời gian đã làm cho người tù
bất bình.
- VV...
4. Bình luận
- Khẳng định đây là một ý kiến đúng đắn, súc tích, chứa đựng những
ý tưởng sắc sảo với hình thức diễn đạt gây ấn tượng. Nó đã chỉ ra được mối liên
hệ thực tế giữa nghệ thuật và đời sống, giữa sáng tạo và tiếp nhận. Nó đề cập
được vấn đề cốt lõi của vòng đời tác phẩm. Nó nhấn mạnh vai trò của người đọc
tri âm và là người đồng sáng tạo, người quyết định đến đời sống thực sự của tác
phẩm nghệ thuật.
- Tuy nhiên , không thể phủ định hoàn toàn rằng số phận tác phẩm
nằm ngoài khả năng quyết định của tác giả. Sự sống của tác phẩm, trước hết phải
do chính nó và người làm ra nó quyết định. Vấn đề được đặt ra với người cầm bút
muốn viết lên những tác phẩm có giá trị thực sự để phút mà tác phẩm kết thúc
cũng chính là lúc sự sống của nó bắt đầu (chứ không phải là cuộc sống) thì việc
kết hợp giữa cái tài và cái tâm là luôn luôn cần thiết. Như Nguyễn Du đã từng
nói: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Đề số 2:
Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống
bằng tâm trí của người đọc.
Bằng tri thức và trải
nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.
1. Giải thích
- Nhân vật văn học: là khái niệm dung để chỉ hình tượng các cá thể
con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể
hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ.
- Hình tượng nhân vật được
sinh ra từ tâm trí của nhà văn: nhà văn là người lao tâm khổ trí sáng tạo
ra hình tượng nhân vật nhưng đó mới là hình tượng bằng chất liệu ngôn ngữ.
- chỉ thực sự sống bằng tâm
trí của người đọc: người đọc mới là người biến hình tượng nhân vật ở dạng
ngôn ngữ thành sinh thể trong tâm trí của mình.
=> Câu nói nêu lên vài trò của cả hai đối tượng là nhà văn và
người đọc trong quá trình sáng tạo – tiếp nhận văn học, nhưng trọng tâm là đề
cao vai trò của người đọc trong việc biến hình tượng từ những kí tự trên mặt
giấy thành sinh thể tồn tại trong đời sống tinh thần của con người, của xã hội.
2. Lí giải
- Hình tượng nhân vật do nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm chỉ là
loại sản phẩm thuộc về tiềm năng. Người đọc mới là người quyết định biến hình
tượng nhân vật từ thế tiềm năng trong ngôn ngữ, trên trang sách thành hình
tượng sống động. Ví thế, hình tượng nhân vật chỉ thực sự sống như một sinh thể
trong tâm trí và bằng tâm trí người đọc.
- Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của hình tượng nhân
vật trong tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ
cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác, cách hiểu khác nhau, ý nghĩa khác
nhau về hình tượng nhân vật.
3. Phân tích, chứng minh
- Cần lựa chọn được một số hình tượng nhân vật tiêu biểu trong các
tác phẩm văn học để phân tích làm sáng tỏ vai trò sáng tạo của nhà văn và giới
hạn của hình tượng khi còn ở dạng ngôn ngữ.
- Khẳng định người đọc có vai trò tạo ra sự sống cho hình tượng
nhân vật khi đọc tác phẩm. Phân tích được những nhân tố dẫ đến vai trò quyết
định của người đọc đối với sự sống của hình tượng nhân vật.
- Gợi ý một số nhân vật:
+ Nhân vật Thúy Kiều – trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
+ Nhân vật Chí Phèo – Nam Cao
+ Người vợ nhặt – Vợ Nhặt của Kim Lân
+ Đường Tăng - Tây du kí của Ngô Thừa Ân
+ Đôn ki hô tê…
4. Bình luận
- Đây là nhận định đúng đắn. Tuy nhiên không được coi thường những
ý đồ tư tưởng của nhà văn. Trong đời sống lí luận văn học, câu nói ―Tác giả đã
chết‖ ý muốn đề cao vai trò của người đọc, nhưng ―Tác giả muôn năm‖ vì tác giả
là người sáng tạo ra hình tượng nhân vật. Mặt khác, bản thân nhân vật cũng có
sức sống nội tại của mình.
- Việc đồng sáng tạo với nhà văn ở người độc không có nghĩa là
bình tán, suy diễn tùy tiện, gượng ép mà phải trên cơ sở hiểu được bản chất,
quy luật sáng tạo nghệ thuật, xuất phát từ văn bản tác phẩm, từ hình tượng nhân
vật.
- Câu nói có ý nghĩa dẫn dắt người đọc có thái độ tích cực trải
nghiệm, tranh biện khi tiếp nhận tác phẩm văn chương nghệ thuật.
Đề số 3: Bình
luận quan niệm của J.Paul. Sartre: “Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có
thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt
động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có
thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”.
Bằng trải nghiệm văn học của mình anh/chị hãy làm sáng tỏ.
1. Giải thích
- Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong
vận động. Tác phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình
thai nghén của nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như ―con quay kì lạ‖. Tác
phẩm chỉ hiện tồn ―trong vận động‖. Vận động là điều kiện thiết yếu để tác phẩm
có thể xuất hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.
- Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là
sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục.
Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng. Cơ chế cho sự vận
động của văn bản nghệ thuật là ―sự đọc‖. ―Sự đọc‖ có ý nghĩa sống còn đối với
sức sống của tác phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những ―vệt
đen trên giấy trắng‖ – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Nghĩa là coi văn
bản được nhà văn sáng tạo ra mới chỉ ở dạng ―tiềm năng‖. Sự đọc là máu để biến
một thể xác vật chất (văn bản) thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có
trăn trở.
=> Ý kiến của J.Paul.Sartre đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn
học. Ông quan niệm văn học là hoạt động giao tiếp, là một quá trình. Từ đó đề
cao vai trò của chủ thể tiếp nhận là người đọc với đời sống văn học.
2. Lí giải
- Quan niệm của Sartre là hoàn toàn có lí.
- Dễ dàng nhận thấy dấu ấn triết học hiện sinh trong nhận định
này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới ở hình thức cá thể, hiện thực với
sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm văn học là một sản phẩm tinh thần, được
cụ thể bằng dạng vật chất (văn bản ngôn từ), cũng chỉ có ý nghĩa trong đời sống
của nó – sự đọc. Được viết ra từ những ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc
giả, nhân loại nói chung, tách khỏi sự đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.
- Quá trình văn học được tạo thành từ quá trình sáng tác (của nhà
văn) và quá trình tiếp nhận (của người đọc). Nó có tính liên tục, quan hệ chặt
chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn bản. Trung tâm của quá trình văn học là
văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng nghĩa với việc sáng tạo những tín hiệu
thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã (chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ
nghệ thuật). Đến lượt mình, độc giả thực hiện việc giải mã.
- Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi
người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô
vàn khả năng khác cho văn bản. Xét ở góc độ này, văn bản có tính độc lập tương
đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục của ―con quay kì lạ‖ chính là những chỉ
dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm.
- Đời sống của tác phẩm không phải tính bằng thời gian nhà văn
thai nghén ra nó. Có những sản phẩm nghệ thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi
mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả. Lại có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi
dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn tiếp tục.
3. Phân tích, chứng minh
Cần phải minh hoạ bằng các tác phẩm văn học phù hợp để bàn trúng
yêu cầu của đề. (Dưới đây là một vài ví dụ gợi ý)
- Truyện Kiều của Nguyễn Du khai sinh cách đây mấy nghìn năm vẫn
còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao cách cảm nhận và tranh luận khác nhau. Có
thời, người ta đặt Truyện Kiều lên bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị
trí của tác phẩm.
Dùng quan điểm xã hội học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận
xét mà không căn cứ vào ngôn từ, mọi nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế
tắc. GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm
mĩ đã rút ra những luận điểm chính xác về Thi pháp Truyện Kiều, gợi mở cho
chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ của ―con quay kì lạ‖ chính là ngôn từ nghệ
thuật.
- Tính độc lập tương đối của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc
có thể phát hiện những nét mới ngoài ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng
bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm 2005, có một học sinh được điểm 10
khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ dụng công trong xây dựng phẩm chất anh
cu Tràng (sự hiếu thảo với bà cụ Tứ). Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ đã kí
gửi – văn bản có thể giải theo nhiều cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ
cảm phong phú.
- Sáng tạo văn học đồng nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu
thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ thuật người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng
cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục quay này. Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ
―mặt chữ điền‖ (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử) có thể hiểu là khuôn mặt của người
con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của người con gái soi qua trái tim nhớ thương
da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa
là gắn với văn cảnh ―Lá trúc che ngang mặt chữ điền‖ để thấy được nét đẹp của con
người Vĩ Dạ và niềm hoài mong đau đáu của Hàn Mạc Tử.
- Cặp hình tượng ―non – nước ở ―Thề non nước của Tản Đà mang tính
đa nghĩa: vừa là hai vật thể thiên nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người
con trai và người con gái nhớ thương trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia
đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một trạng thái cảm xúc chung.
4. Bình luận
- Khẳng định ý nghĩa của sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò
của nhà văn và quá trình sáng tạo. ―Con quay kì lạ dẫu biến ảo, vận động về đâu
cũng cần có một trục trụ duy nhất để cân bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật,
những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày công xây dựng trong tác phẩm.
- Văn bản thì duy nhất nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là
bất tận. Tác phẩm có thể chỉ được tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó
là bất tử (đối với các kiệt tác). Độc giả chính là thước đo giá trị đích thực
của một tác phẩm văn học. Quan niệm hiện sinh của J.Paul.Sartre xét cho cùng đã
đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm văn học.
Đề số 4:
Nhà lý luận văn học Trung Quốc Lưu Hiệp cho rằng: “Phàm việc làm văn thì nội
tâm có bị xúc cảm lời nói mới phát ra. Nhưng người xem văn thì (ngược lại):
trước xem lời văn rồi sau mới vào nội tâm tác giả. Nếu ta cứ theo sóng đi ngược
lên tìm nguồn thì dù văn có kín đáo cũng sáng rõ. Đời xa không ai thấy mặt nhà
văn, nhưng xem văn liền thấy tiếng lòng của họ”. (Văn tâm điêu long/ thiên Tri
âm; NXB Văn học; H; 1999; trang 274)
Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy
làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học tiêu biểu.
1. Giải thích:
- Làm văn và xem văn. Thực chất là hai quá trình quan trọng của
đời sống văn học: quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học. Ở đó khái niệm ―văn
tức là tác phẩm văn học là trung tâm. Làm văn là quá trình của người sáng tác,
nhà văn. Xem văn là quá trình tiếp nhận của người đọc.
- Người làm văn thì xúc cảm lời nói mới phát ra: Nội dung của tác
phẩm văn chương là nội dung cảm xúc, nhất là thơ. Người làm thơ có xúc động,
cảm xúc thì lời nói mới phát ra. Văn bản văn học là sự thể hiện tình cảm, tư
tưởng của người nghệ sĩ trên mặt giấy. Cảm xúc trong thơ phải mãnh liệt, tràn
đầy. Rất nhiều người đề cao vai trò của cảm xúc với việc làm văn. Thơ phát khởi
phát từ lòng người, Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần…
- Ngược lại, người xem văn, trước xem ngôn ngữ, rồi hiểu người; rẽ
sóng tìm nguồn để thấy tiếng lòng của người làm văn. Quy trình của tiếp nhận:
trước phải xem văn. Nghĩa là phải xuất phát từ văn bản ngôn từ; ngôn ngữ là cái
lớp rào cản đầu tiên khi tiếp xúc văn bản văn học. Văn bản văn học gồm thế giới
hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa được ẩn tàng bên trong van bản ngôn từ.
Không thể hiểu văn nếu không giải mã văn bản ngôn từ. Đó là hệ thống kí hiệu
được mã hóa để chuyển tải thông điệp thẩm mĩ của người làm văn, nghệ sĩ ngôn
từ. Xúc cảm trước cuộc đời, trước số phận con người được nghệ sĩ thể hiện kín
đáo trong trang văn, sau văn. Nội dung cảm xúc của tác phẩm văn học ít khi phơi
lộ trên bề mặt của văn bản ngôn từ ngôn từ, mà thường được gửi gắm kín đáo đằng
sau câu chữ. Người xem văn phải biết rẽ sóng tìm nguồn, làm hành trình ngược
dòng văn sẽ bắt gặp tiếng lòng tác giả:
Đời xa không ai thấy mặt nhà văn, nhưng xem văn liền thấy tiếng
lòng của họ.
- Phải thấy có khi rẽ sóng mà không thấy nguồn, không tìm được mặt
thi nhân. Nhưng nếu thực sự rung động, sống hết mình với tác phẩm, chắc chắn
người xem văn sẽ bắt gặp phần nào tiếng lòng của họ. Tri âm hoàn toàn là điều
lí tưởng, là mong ước, nhưng khó thay: “Bách niên ca tự khổ / Vị kiến hữu tri
âm”. (Tự làm khổ cả trăm năm vì thơ / Mà vẫn chưa thấy có người hiểu mình). Khó
nhưng không phải không có. Chuyện Bá Nha Tử Kì đâu chỉ là chuyện đời xưa. Đó là
câu chuyện của muôn đời về tri kỉ tri âm. Trần Phồn và điển chiếc giường cũng
là nói chuyện ấy. Mắt xanh cũng là điển chỉ sự thấu hiểu nhau của những người
tri kỉ. Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên và cả dân tộc thấu hiểu nỗi lòng Nguyễn
Du? Thanh Thảo tri âm với nghệ sĩ cách ngàn trùng cây số? Những tấm lòng đồng
cảm vượt không gian và thời gian.
=> Ý kiến của Lưu Hiệp thật đúng đắn và xác đáng khi bàn về quá
trình sáng tạo của nhà văn và quá trình tiếp nhận của người đọc.
2. Phân tích, chứng minh
Chọn một số tác phẩm tiêu biểu, phân tích để làm sáng tỏ hai vấn
đề lời nhận định đề cập đến là làm văn và xem văn:
2.1. Việt Bắc
* Có xúc cảm lời nói mới
phát ra: Từ cảm hứng bộc lộ thành nội dung và hình thức
- Hoàn cảnh ra đời
- Xúc cảm thành cảm hứng nghệ thuật
- Hô ứng đồng vọng trong nỗi nhớ về 15 năm trên chiến khu Việt Bắc
- Cảm xúc ấy phải tìm đến bộc lộ qua các hình thức nghệ thuật: thể
thơ, kết cấu, ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, các biện pháp nghệ thuật…
* Xem văn từ lời văn đi
vào nội tâm tác giả
- Từ hình thức nghệ thuật nêu trên: câu chữ, ngôn từ, hình ảnh,
biện pháp nghệ thuật…, người tiếp nhận có thể hiểu được tâm tư, tình cảm, tư
tưởng của tác giả: (Phân tích bài thơ)
* Với cách thức tiếp
nhận như vậy thì dù văn có kín đáo cũng sáng rõ. Đời xa không ai thấy mặt nhà
văn, nhưng xem văn liền thấy tiếng lòng của họ
- Có kín đáo cũng sáng rõ: Những nỗi niềm của nhà thơ được thể
hiện kín đáo qua ngôn từ, hình ảnh, … đều được nhìn rõ. Vd: Người về rừng núi
nhớ ai…để già”
- Không thấy mặt nhà văn nhưng có thể hiểu tâm tư và tiếng lòng
của họ:
3. Bình luận
- Ý kiến đúng đắn, xác đáng, thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà lí
luận văn học Lưu Hiệp.
- Tuy nhiên, phải thấy cái gốc của văn chương là tình cảm, cảm
xúc. Vì thế, để sáng tạo nên một tác phẩm văn học chân chính, nhà văn phải có
tầm vóc tư tưởng, tình cảm lớn.
- Trong quá trình tiếp nhận, người đọc cần ―lấy hồn tôi để hiểu
hồn người‖, có con ―mắt xanh‖ để tri âm nhưng bên cạnh đó cần có trình độ thẩm
thấu văn chương mới hiểu được hết giá trị của văn chương.
Đề 6:
Mọi tác phẩm dù được sáng tạo theo một thi pháp nào cũng mở ra
theo các
cách đọc. Mỗi cách đọc mang đến cho tác phẩm một đời sống mới.
Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số
tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn THPT.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân
hoặc một tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con
người; biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ ...của chủ thể trước thực tại bằng
hình tượng nghệ thuật.
- Thi pháp có hai cách hiểu. Thứ nhất, đó là các nguyên tắc, biện
pháp chung để làm cho một văn bản trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Thứ hai,
thi pháp là các nguyên tác, biện pháp nghệ thuật cụ thể để tạo nên giá trị đặc
sắc của một tác phẩm, tác giả, trào lưu.
- Cách đọc: là cách tiếp nhận văn học của người đọc, người đọc
dùng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống và cả tâm hồn của mình để chiếm lĩnh giá
trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm văn chương.
=> Ý kiến khẳng định: bất cứ tác phẩm nào cũng là tác phẩm mở
cho các sự đọc, các người đọc khác nhau. Tác phẩm sinh ra từ ý thức (tâm lý)
người viết và sống dậy trong tâm lý (ý thức) người đọc. Sức sống của tác phẩm
nằm ở trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.
2. Bình luận
- Ý kiến đúng đắn và xác đáng
- Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của
ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên người ta gọi tác phẩm văn học là một
"văn bản mở". "Văn bản mở" nghĩa là tác phẩm gồm hai phần:
"phần cứng" là những con chữ bề mặt văn bản đang nằm im, "phần
mềm" là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa được xuất hiện trong quá trình tiếp nhận.
Từ xưa Phương Đông đã có mệnh đề: Thi tại ngôn ngoại và văn hữu dư ba. Cái phần
ngôn ngoại và dư ba này không tồn tại trên văn bản mà do ngữ cảnh tạo ra trong
tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Vì thế, cái gọi là "tác phẩm văn
học" chỉ thực sự tồn tại khi nó biến thành cái "phần mềm" kia, còn
nếu không nó trở thành "quyển sách chết".
- Ng-êi Trung Quèc x-a cho r»ng t¸c phÈm tån t¹i trong lßng cña
ng-êi tri kØ chø kh«ng trªn trang giÊy; v× thÕ viÖc viÕt v¨n lµ viÖc cña tÊm
lßng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó
mà thôi. Người đọc là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống
lại và bước đi giữa cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn
đọc. Tuỳ từng tư tưởng, kinh nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác phẩm có
muôn ngàn cuộc sống khác nhau. Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là nó. Sự
thú vị trong đa dạng tiếp nhận cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng tạo.
Vì thế sức sáng tạo của nhà văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và thế là
nghệ thuật có sự sống vĩnh hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo hay là
chết.
- Vai trò của người đọc là rất quan trọng đối với sức sống của một
tác phẩm song cho rằng phải có nó mới có TPVH thì đó là một lập luận khiên
cưỡng. Văn bản tác phẩm có thể tạo ra các dị bản khác nhau trong tiếp nhận của
người đọc song, đó là các dị bản tiếp nhận từ một văn bản ổn định duy nhất là
tác phẩm văn học. Cũng như mọi giao tiếp ngôn ngữ, giao tiếp ngôn ngữ nghệ
thuật qua tác phẩm văn học bao gồm khâu phát ngôn của tác giả thành ra diễn
ngôn của tác phẩm rồi đi vào tiếp nhận diễn ngôn đó của độc giả. Đây là quá
trình tâm lý có sự đồng nhất, thống nhất mà cũng có sự sai biệt, mâu thuẫn.
Chính điều này tạo ra cái mà chúng ta gọi là sức sống của tác phẩm văn học
trong đời sống xã hội vô cùng phong phú, phức tạp, đa dạng giữa các nhà văn,
nhà thơ – các tác giả với công chúng người đọc, người phê bình văn học.
3. Chứng minh
Chọn một số tác phẩm tiêu biểu, phù hợp phân tích để làm sáng tỏ ý
kiến
(Đưới đây là một vài gợi ý)
- Truyện Kiều của Nguyễn Du
+ Nguyễn Công Trứ coi Kiều là kẻ tà dâm, không đáng nhận sự thương
xót.
Dưới cái nhìn khắt khe của lễ giáo phong kiến ông viết:
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà
dâm.
+ Hoài Thanh: Truyện Kiều là tiếng nói đau đớn, hiểu đời của một
trái tim lớn.
+ Tố Hữu : Truyện Kiều kết tinh của lời non nước, tiếng ru, tiếng
thương có sức vọng đến ngàn đời.
+…
- Bài thơ: Lặng lẽ đêm của Y Phương:
Trên đầu ta
Trăng khe khẽ sáng
Sương khe khẽ lắng
Mây khe khẽ trôi
Dưới lưng ta
Chiều khe khẽ thở
Trong ngực ta
Khe khẽ NGƯỜI.
=> Khi đọc bài thơ, có người đã dựa vào điệp từ ―khe khẽ‖ lặp
lại năm lần để coi đó là nhãn tự, là phép ẩn dụ về sức sống nhỏ nhoi, yếu ớt,
thoi thóp của sự vật. Bài thơ vẽ nên một bức tranh trăng, sơn mây. Đọc kĩ bài
thơ nhiều người lại cho rằng, danh từ ―NGƯỜI‖ mới là nhã tự làm bừng sáng bài
thơ, bởi với chữ người ấy ta nhận ra một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm đến vô cùng
để cảm nhận bức tranh đa chiều với vẻ đẹp của trăng, sương, mây, sự vận động
của sự vật lặng lẽ, khẽ khàng, nhưng trong trái tim lại là sự sống tiềm ẩn mạnh
mẽ.
- Đôn-ki-hô-tê: Người Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người
Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là
người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa hiện thực lại coi là biểu tượng của sự
suy vi một thời phong kiến đã qua.
4. Đánh giá
- Sức sống của tác phẩm văn chương không chỉ tạo nên bởi quá trình
tiếp nhận mà con ở sức sống nội tại của tác phẩm do người nghệ sĩ tạo ra.
- Người nghệ sĩ cần sáng tạo nên những tác phẩm văn chương chân
chính, một tác phẩm văn chương giống như ―tảng băng trôi‖ để tạo nên sức hấp
dẫn, đánh thức niềm khát khao khám phá của người đọc.
- Bạn đọc không nên suy diễn tùy tiện, phải bắt nguồn từ văn bản.
Phải thấy, khi đọc một văn bản văn học, người đọc đã thực hiện một quá trình
kép: vừa sáng tạo ra tác phẩm vừa kiến tạo nên con người mình.
Đề 7:
Có ý kiến cho rằng: Tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc sống với
tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình để cảm nhận bức thông điệp thẩm mĩ mà tác
giả gửi đến người đọc.
Anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Văn học là tiếng nói tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của nhà văn
trước cuộc đời. - Nói đến tác phẩm văn học là nói đến câu chuyện của tâm hồn
(tình cảm, ước mong sâu kín của nhà văn nhắn gửi với bức thông điệp thẩm mĩ),
là điệu hồn tác giả đi tìm điệu hồn độc giả. Vì vậy tiếp nhận văn học đòi hỏi
người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình để cảm nhận bức thông
điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến người đọc.
- Bức thông điệp thẩm mĩ: Là tình cảm, tâm hồn, ước mong sâu kín
của tác giả gửi đến người đọc thông qua hình tượng nghệ thuật.
2. Bàn luận
- Ý kiến đúng đắn và xác đáng.
- Xuất phát từ đặc trưng của văn học. Bản chất của văn học là sự
sáng tạo.
Người nghệ sĩ khai thác cuộc sống, nhưng cuộc sống ấy đi vào mỗi
trang văn, trang thơ lại mang một dấu ấn riêng. Thơ văn là một thế giới thuộc
về phần tâm hồn của người nghệ sĩ, nó là những biến thái tinh vi của tình cảm,
là khát khao hạnh phúc, là những ước vọng lớn lao v.v…Văn học là sự phản ánh
cuộc sống thông qua chủ thể nhà văn, nhà thơ nên mỗi tác phẩm bao giờ cũng thể
hiện tư tưởng tình cảm, gửi gắm những thông điệp của tác giả…
- Tại sao tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc phải sống với tác
phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình? Bởi chỉ khi nhập vào thế giới hình tượng trong
tác phẩm, chỉ khi để trái tim rung lên theo những nhịp sống trong tác phẩm, ta
mới cảm nhận được những buồn vui trăn trở, khát vọng của nhà văn; mới thấy được
những số phận, cảnh đời, mới hiểu được giá trị thật sự của tác phẩm văn học đó.
3. Chứng minh
Chọn một số tác phẩm tiêu biểu, phù hợp phân tích để làm sáng tỏ ý
kiến
(Đưới đây là một vài gợi ý)
- Truyện Kiều – Nguyễn Du: Nhận ra số phận đau khổ của kiếp hồng
nhan bạc mệnh; sự tác oai, tác quái của xã hội đồng tiền đã vùi dập, chà đạp
tình yêu, hạnh phúc, quyền sống và nhân phẩm cao đẹp của con người. Nhận ra nỗi
đau đứt ruột của nhà nhân đạo lớn, tài năng kiệt xuấ của Đại thi dào dân tộc.
- Vội vàng – Xuân Diệu: Có người nông nổi cho rằng bài thơ là lời
giục giã cho cách sống hưởng thụ, gấp gáp nhưng ta nhận thấy bức thông điệp
thẩm mĩ Xuân
Diệu muốn gửi đến bạn đọc là lòng yêu đời, yêu sống đến cuồng
nhiệt, là sự thức gọi mỗi người hãy sống sao cho xứng đáng để không bao giời
phải nuối tiếc, xót xa vì những ngày tháng đã sống hoài, sống phí.
- Tống biệt hành – Thâm Tâm: Có người cho Li Khách là người khổng
lồ không tim, sắn sang coi người thân như hư vô, nhỏ bé để mạnh bước trên đường
thực hiện lí tưởng. Nhưng thực ra, đằng sau dáng vẻ kiên quyết, dứt khoát của
li khách ta nhận ra nỗi buồn thương day dứt ―Ta biết người buồn chiều hôm
trước…Ta biết người buồn sáng hôn nay‖. Mặc dù thế, anh vẫn đi theo tiếng gọi
của ―chí nhớn‖ . Để an ủi người ở lại, anh mong mỏi người thân hãy coi mình như
hạt bụi, như lá rơi, như hơi rượu tan biến vào hư vô. Đó là vẻ đẹp thực sự của
li khách - dáng vẻ của dũng khí và tâm hồn nồng ấm rất con người.
- Bước vào trang văn của nhà văn Mĩ Ô – hen – ri, mấy ai trong
chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động trước cảnh ngộ của cô họa sĩ trẻ Giôn – xi,
phải từng ngày từng giờ bám lấy sự sống bằng một tia hi vọng mong manh – ―chiếc
lá cuối cùng‖. Nhưng bằng trái tim giàu lòng yêu thương đồng loại, cụ Bơ –men
đã hi sinh cuộc đời mình để cứu rỗi một linh hồn đang dần lụi tàn trong một
thân xác yếu ớt, tưởng chừng như không giờ cứu chữa được. Kiệt tác cuối đời của
cụ - ―chiếc lá cuối cùng‖ chính là bức thông điệp màu xanh mà nhà văn Ô – hen –
ri muốn đem đến cho bạn đọc: Hãy sống và yêu thương, xã hội luôn cần tình yêu
và lòng nhân đạo cao cả. Bởi tình yêu thương sẽ cứu sống muôn triệu trái tim
khổ đau bất hạnh trên cõi đời này.
- vv…
4. Đánh giá
- Đây là ý kiến sâu sắc và đúng đắn cho người tiếp nhận để có thể
cảm nhận được chiều sâu tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn chương – hay nói cách
khác là phần chìm của ―tảng băng trôi‖ nghệ thuật.
- Bài học sáng tạo và tiếp nhận: Nhà văn cần thấy vai trò và trách
nhiệm khi sáng tạo văn học nghệ thuật. Viết những tác phẩm bằng tâm huyết và
tài năng của mình. Bạn đọc cần có sư tri âṃ , đồng cảm với tác phẩm , với
nhà thơ, nhà văn để có thể sẻ chia những tinh cà ̉m đồng điêụ . Khi
ấy, bạn đọc vừa cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm nghệ thuật, vừa kiến tạo nên
con người mình.
Đề 8:
Mi-lan Kan-de-ra khẳng đinh:
Khi đặt bút viết một tác phẩm, nhà văn thường tìm hiểu và đặt ra
rất nhiều câu hỏi. Chiều sâu của tác phẩm thể hiện ở khả năng đặt ra câu hỏi về
mọi vấn đề trong xã hội. Chính người đọc sẽ tìm được câu trả lời chính xác theo
cách riêng của mình.
Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý
kiến trên.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Trong nhận định của Mi-lan, kết quả về sự tìm hiểu thực tế của
nhà văn là câu hỏi và chính điều này tạo ra chiều sâu cho tác phẩm. Nó cho thấy
tác giả phẩm văn học không phản ánh hời hợt, dễ dãi ở bề mặt cuộc sống mà thực
sự là những kiếm tìm, những trải nghiệm, những suy tư về hiện thực.
- Trên cơ sở những câu hỏi đó của nhà văn, người đọc sẽ tìm ra câu
trả lời cuar riêng mình. Đó là cách thức, là con đường mà tác phẩm đi vào trong
đời sống, trong tiếp nhận của người đọc.
=> Ý kiến đề cập đến phương thức nhận thức hiện thực độc đáo
của văn học – nhận thức thông qua việc đặt câu hỏi. Chỉ ra sự tương tác của nhà
văn, tác phẩm và người đọc. Nhà văn không thay người đọc để đưa ra câu trả lời,
nhà văn chỉ là người đặt câu hỏi và người đọc sẽ hoàn tất câu trả lời. Đó là
tinhs chất cơ bản của tiếp nhận văn học.
2. Bình luận và chứng minh
a. Tại sao việc đặt ra câu hỏi lại quyết định chiều sâu của một
tác phẩm văn
học khi nó phản ánh hiện thực?
* Vì tìm hiểu thực tế đời sống thực chất là một quá trình với
nhiều chặng khác nhau:
- Ở chặng thứ nhất, nhà văn thâm nhập thực tế và ghi nhận những sự
kiện: Dẫn chứng: (Nam Cao ghi nhận sự kiện người nông dân bị bần cùng hóa (Lão
Hạc), họ bị bứt ra khỏi làng xã quen thuộc, bị vứt vào những vùng đồn điền (con
trai Lão Hạc), bởi nếu không rời bỏ xã hội làng xã họ sẽ phải sống cô độc như
Lão Hạc, phải mất con, bán chó và chết thê thảm. Nam Cao còn ghi lại sự tha hóa
của người nông dân về nhân phẩm (Chí Phèo). Những sự kiện không phải ngẫu
nhiên, đơn lẻ như: chết vì miếng ăn, vì cái đói, sự lưu manh hóa trở đi trở lại
trong các tác phẩm của ông như một quy luật tàn nhẫn.)
- Ghi lại những sự kiện đó, truy tìm nguyên nhân của những sự kiện
đó.
+ Dẫn chứng 1: (Ở điểm kết thúc tác phẩm của Nam Cao đầy ắp những
câu hỏi. Có những câu hỏi trực tiếp: Thế lực nào đã đẻ ra Chí Phèo? Ai cho tao
lương thiện? Làm thế nào cho hết những vết sẹo trên gương mặt này? (Chí Phèo).
Có những câu hỏi gián tiếp toát ra từ toàn bộ thế giới hình tượng của tác phẩm.
Vì sao Chí lại đánh đổi mạng sống để làm người lương thiện? Vì sao nhân vật của
Nam Cao lại nhiều nước mắt đến thế…Những câu hỏi như thế dẫn chúng ta vào tầng
vỉa khác nhau của đời sống hiện thực. Đó chắc chắn là những câu hỏi đã từng tra
vấn nội tâm Nam Cao một cách căng thẳng. Chính những câu hỏi như thế làm nên
chiều sâu của tác phẩm.)
+ Dẫn chứng 2: Hành trình của Nguyễn Minh Châu viết về số phận của
người đàn bà hàng chài cũng đặt ra những câu hỏi tương tự; Vì sao người đàn bà
có thể chấp nhận một cuộc sống như thời trung cổ đến thế? Tại soa cuộc sống đã
hòa bình mà con người vẫn khổ như vậy? Người chồng vũ phu là đáng giận hay đáng
thương?
=> Rõ ràng những câu hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp trong tác
phẩm văn học là cách thức mà nhà văn khoan sâu vào những tầng vỉa trong cuộc
sống, là con đường để nhà văn nhận thức, suy tư về bản chất của hiện thực.
Những tác phẩm lớn, các câu hỏi đặt ra không chỉ có ý nghĩa với đương thời mà
còn có ý nghĩa với muôn đời, gắn với nhiều thời đại, phổ quát cho cả loài
người.
* Bằng cách nào nhà văn có năng lực đạt ra những câu hỏi như thế?
Nhà văn phải đi rất sâu vào hiện thực, thậm chí phải đi qua những cảnh ngộ rất
thơ mộng, đẹp đẽ như một tấm sưng mù (Phùng – Chiếc thuyền ngoài xa , Nguyễn
Minh Châu), hoặc là phải trai qua một quá trình nhận thức (Ông giáo – Lão Hạc).
Quan trọng hơn, nhà văn phải có một tấm lòng luôn nhạy bén để thấu hiểu và cảm
nhận bi kịch của con người.
b. Tại sao việc người đọc trả lời câu hỏi được nhà văn đặt ra
trong tác phẩm
lại là điều quan trọng?
- Tác phẩm văn học là một không gian không phải chỉ có tiếng nói
duy nhất của tác giả. Tác phẩm văn học là không gian đối thoại của tác giả với
độc giả. Chính việc đưa ra những câu trả lời khiến người đọc tham dự một cách
tích cực vào tác phẩm. Để đưa ra những câu trả lời thì người đọc cần đến kinh
nghiệm sống, và vì thế người đọc đem lại cho tác phẩm những ý nghĩa mới, nhờ đó
tác phẩm không ngừng được bổ sung, sáng tạo, được tiếp thêm sức sống. (Biện
giải cho từng cách hiểu: Ai đẻ ra Chí Phéo? Người đàn bà hàng chài đáng thương
hay đáng trách?...)
- Ở mỗi thời đại khác nhau người ta quan tâm đến những câu hỏi
khác nhau? Với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, có thời kì người ta quan tâm đến
câu hỏi: Ai cho tao lương thiện? Có thời đại lại quan tâm đến câu hỏi: Làm thế
nào cho mất đi những vết sẹo trên gương mặt này?
- Những câu hỏi của tác phẩm có trực tiếp và gián tiếp, câu hỏi
trực tiếp là do nhà văn đưa ra, còn câu hỏi gián tiếp là do phần lớn người đọc
đặt ra và chính người đọc sẽ tìm câu trả lời cho mình.
3. Đánh giá
- Trong nhận định của mình, Ku-de-ra nói tác phẩm có thể đặt ra
câu hỏi về mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Điều đó đúng nhưng có lẽ những câu hỏi
có ý nghĩa nhất mà văn học đem đến cho con người là những câu hỏi phản biện về
những điều cồn tồn tại trong xã hội, những câu hỏi tự vấn về chính mình…Nhờ
những câu hỏi ấy
mà văn học có sức thanh lọc, nâng đỡ tâm hồn con người.
- Bài học sáng tạo và tiếp nhận…
Đề 9:
Đối thoại với văn chương, Cao Bá Quát nói: “Xưa nay, nỗi khổ của
người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ”.
(Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2, tr 188 – NXB giáo dục năm
2008)
Phát biểu những suy nghĩ của mình về nhận định trên. Phân tích một
số tác phẩm mà ng-ời nghệ sĩ đã khổ vì “chữ tình” để đạt tới sự “gặp gỡ” mà anh
(chị) hiểu sâu sắc nhất.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Bài viết của thí sinh phải giải quyết tốt hai yêu cầu kiến thức
cơ bản:
+ Yêu cầu thứ nhất là trình bày suy nghĩ của mình về nhận định.
+ Yêu cầu thứ hai là làm sáng tỏ nhận định ấy qua những tác phẩm
người nghệ sĩ đã khổ vì ―chữ tình‖ để đạt tới sự ―gặp gỡ‖. 2. Với yêu cầu thứ
nhất, cần làm nổi rõ các ý sau:
- Nhận định trên nêu lên một quy luật có tính chất phổ quát muôn
đời. Trước hết cần hiểu rõ ―nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình‖. Chữ
―tình‖ ở đây chính là tình cảm, cảm xúc đối với đồng loại, nhân dân, đất nước
và cũng là tình cảm của chính người nghệ sĩ mang thiên chức ―nhân đạo từ trong
cốt tuỷ‖ (nói như Sê – Khốp).
- Nỗi khổ không chỉ là đơn giản là chuyện sướng khổ theo nghĩa
thông thường trên đời mà ―khổ‖ chính là nhà văn bằng thiên chức của mình đã cảm
thông sâu sắc đến tận cùng mọi buồn vui sướng khổ của nhân loại nói chung, nhân
dân mình, dân tộc mình nói riêng. Họ có thể đau đớn, vật vã giằng co đến chảy
máu trước cảnh ngộ thân phận xót xa của người khác. Cũng có thể reo lên sung
sướng trước niều vui dù là nhỏ nhoi của con người.
- Như thế nỗi khổ lớn nhất xưa nay của người nghệ sĩ hoá ra lại là
chuyện cảm thông chia sẻ, tri ân trước mọi cung bậc của tình cảm con người. Để
nói lên được tất cả tình cảm ấy, người nghệ sĩ phải sống với cuộc đời , sống
với con người, phải mở lòng đón nhận mọi vang động của cuộc đời. Và để có được
sức cảm thông đó, người nghệ sĩ phải dấn thân, phải tự nguyện, nói như nhà văn
Lỗ Tấn thì đại ý: Tôi ăn lá ăn cỏ để vắt ra là sữa nuôi người đạt được trình độ
ấy thì nỗi khổ lớn nhất lại là niềm hạnh phúc nhất.
- ―Cái khó ở trên đời không gì bằng sự gặp gỡ. Thực chất đây là sự
giao tiếp giữa tác giả và người tiếp nhận, là mối quan hệ giữa người nói và
người nghe, người viết và người đọc, người bày tỏ và người chia sẻ cảm thông.
Người viết baogiờ cũng mong mỗi người đọc hiểu mình, cảm nhận được điều mình
muốn gửi gắm kí thác. ―gặp gỡ chính là sự đồng điệu hoà hợp của những tâm hồn.
ở mức độ thống nhất cao thì đó là đồng cảm xúc của người đọc.
Hiểu như vậy thì cái ―khó lại là sự thành công sự tuyệt mĩ của tác
phẩm. Tác phẩm chỉ thật sự có giá trị khi được đông đảo bạn đọc đón nhận tìm
thấy mình ở trong đó.
- Mối quan hệ giữa cái ―khổ và cái ―khó của người nghệ sĩ chính là
mối quan hệ giữa quá trình người nghệ sĩ sống, chiêm nghiệm, hoá thân trong
cuộc sống dài để phản ánh chân thật những cảm xúc những suy tư, những trăn trở,
niềm đau khổ vô cùng và hạnh phúc vô cùng của con người và truyền thông cho
được tình cảm ấy đến với bạn đọc. Sự đón chờ, tiếp nhận hồ hởi của bạn đọc là
tiêu chuẩn khắt khe nhất, nghiêm túc nhất đối với sự trường cửu của tác phẩm
văn chương. Người nghệ sĩ nào làm được sứ mệnh ấy là nghệ sĩ lớn, tác phẩm nào
đạt được sự hoà hợp ấy là tác phẩm bất hủ không sợ thời gian.
2. Yêu cầu thứ hai, cần làm tốt các ý sau:
- Khi làm sáng tỏ nhận định phải cân nhắc lựa chon những tác phẩm
thật sự có giá trị của những nghệ sĩ thực sự vĩ đại hoặc uy tín.
- Khi phân tích cụ thể phải chỉ ra được chỗ nhà văn ―lao tâm khổ
tứ‖ cảm thông vô cùng với tình cảm con người, nói hộ cho tâm sự nỗi niềm con
người để sản phẩm tinh thần của họ được bạn đọc đón nhận.
- ở góc độ tiếp nhận của người đọc, cũng phải chỉ rõ được người
đọc đã cảm thông, giao thoa đồng cảnh ngộ với người nghệ sĩ sâu sắc ở điểm nào,
những tình cản gì. Nói cách khác, sợi tơ lòng kết dính người nghệ sĩ và bạn đọc
là ở cách nhìn và tình cảm nào.
- Khi phân tích minh hoạ, đề có phần nghiêng về tư tưởng tình cảm
nhưng không vì thế mà xem nhẹ yếu tố hình thức, nghệ thuật của tác phẩm. Phải
xem nội dung tốt, hình thức lại chuẩn mực thì đó là tác phẩm hoàn hảo.
- Phân tích minh hoạ phải tuân theo một trình tự hợp lí, có thể mở
rộng phạm vi tác phẩm minh hoạ qua mọi thời đại, mọi quốc gia miễn là người
viết nói đúng, nói trúng vấn đề cần hiểu rõ và làm rõ.
Đề 10:
Phải chăng, tiếng nói tri âm là khát vọng muôn đời của văn chương
xưa nay?
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Vấn đề tiếng nói tri âm trong văn chương.
a. Khái niệm
Tri âm được hiểu là sự đồng điệu, thấu cảm. “Xưa nay nỗi khổ của
người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ.”(
Hoa tiên truyện tự - Cao Bá Quát).
b. Luận giải về tiếng nói tri âm trong văn học.
- Sự tri âm giữa người đọc và người viết trước hết được bắt nguồn
từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút là để giải bày lòng
mình. Nhà thơ mang ―tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu‖. Nhà
văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo
phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một mắt xích không thể thiếu trong chu trình
sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có
niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu
với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ
rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với
trái tim. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết : “nhà thơ gói tâm tình của mình
trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình”.
- Xét về đối tượng phản ánh của văn học: Những cuộc đời bi kịch,
đau thương, những số phận ngang trái thường dễ khơi gợi cảm xúc đồng cảm xót
thương của con người, nhất là những người nghệ sĩ ( quy luật của cuộc sống: con
người nhạy cảm, quan tâm nhiều hơn trước nỗi buồn hơn là niềm vui, trước bất
hạnh hơn là hạnh phúc, trước mất mát, thiệt thòi hơn là được, may mắn). Tiểu
Thanh, Nguyễn Du, Lorca đã đi vào trong thơ của Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo
bởi họ có chung số phận ấy.
Tri âm còn là tìm đến cái đẹp để ngưỡng mộ, ngợi ca. Bản thân cái
đẹp có sức chinh phục lớn lao với những người nghệ sĩ. Cái đẹp có từ trong cuộc
đời nhân cách của con người, cái đẹp còn có trong giá trị của tác phẩm nghệ
thuật. Trong cảm xúc của các nhà thơ sự cảm thông, xót thương phải đi liền với
sự ngợi ca, ngưỡng mộ, tôn vinh. Qua các tác phẩm thơ chúng ta thấy Nguyễn Du,
Tố Hữu, Thanh Thảo luôn muốn lưu giữ lại với muôn đời những vẻ đẹp mà đối tượng
tri âm của họ sở hữu - Trên cơ sở lí luận tiếp nhận văn học:
+ Khi nhà văn kết thúc trang viết cuối cùng của tác phẩm, thì lúc
đó tác phẩm mới bắt đầu vòng đời của nó. Nói các khác quá trình hoạt động của
tác phẩm không phải là một chu trình đóng kín, mà nó mở ra về phía đời sống. Và
đối với những tác phẩm lớn thì cuộc đời của nó luôn luôn ẩn chứa những khả năng
mới sẽ bộc lộ khi nó viễn du qua không gian và thời gian. Và khi đó sức sống
của tác phẩm văn chương sẽ được bất tử hoá trong sợi dây tri âm linh diệu giữa
tác giả và bạn đọc. Phải chăng vì vậy, M.Gorki đã viết: ―người tạo nên tác phẩm
là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả‖.
+ Tác phẩm văn chương chỉ sống được trong tấc lòng của những người
tri kỉ - là bạn đọc nhưng không phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và
thông điệp của tác giả. Tiếp nhận văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tâm lý và
tâm thế tiếp nhận, môi trường văn hoá mà người đọc đang sống, đang tiếp thu, ….
Chuyện khen hay chê trong văn chương là điều dễ thấy. Cho nên, ở bất kỳ thời
đại nào, bất cứ nền văn học dân tộc nào cũng đều rất cần tiếng nói tri âm của bạn
đọc dành cho tác giả. Nghĩa là bạn đọc ấy phải cảm thông, sẻ chia với những nỗi
niềm tâm sự , nghĩ suy của người viết gửi gắm vào tác phẩm.
- Thực tiễn văn học: Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn
Đăng Tuyển từng có lời bình Truyện Kiều như sau: “Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố
Như tử làm Truyện Thuý Kiều, việc tuy có khác nhau mà lòng thì là một, người
đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài
tình thật là một cái thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả
xưa nay vậy”. Chính bởi ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương
mà biết bao nhà thơ, nhà văn đã sáng tác những tác phẩm mà đối tượng lại chính
là các nhà văn, nhà thơ. Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi
tìm được tri âm là Tố Hữu : ―Ở đây tôi thấy thơ tôi, Sống trong bản dịch tuyệt
vời của anh”, hay Thanh Thảo đã viết về Lor ca bằng những vần thơ với nỗi đau
“bốc cháy như mặt trời”. Trường hợp của Nguyễn Du và Tố Hữu trong hai bài thơ
―Độc Tiểu Thanh kí‖ và ―Kính gửi cụ Nguyễn Du cũng không nằm ngoài mạch nguồn
cảm hứng giàu giá trị nhân văn ấy .
2. Tiếng nói tri âm trong văn học qua một số tác phẩm tiêu biểu.
a. Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
- Hơn ai hết trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Du là người khổ vì
chữ tình và khát khao sự gặp gỡ đến khắc khoải. Thi hào là một con người suốt
đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Chắc hẳn đại thi hào sẽ ―ngậm cười chín
suối‖ vì ―cả cuộc đời nay hiểu Nguyễn Du‖, vì có biết bao người như Huy Cận, Tế
Hanh, Chế Lan Viên, …và đặc biệt là Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ
người những uất hận kia. Bài thơ ―Kính gửi cụ Nguyễn Du‖ ra đời như bắt nhịp
cầu tri âm đến những tâm sự của Tố Như trong ―Độc Tiểu Thanh kí‖, đồng thời
cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương.
- Trước hết ―Độc Tiểu Thanh kí‖ là tiếng nói tri âm của một cá
nhân dành cho một cá nhân, một lòng đau đi tìm một hồn đau, cất lên trong một
không gian đa chiều của tiếng khóc – tiếng khóc là biểu tượng cho sự đồng cảm
sâu sắc giữa hai con người khác thời đại và dân tộc. Có một khoảng không gian
và thời gian diệu vợi, hun hút, ngăn cách hai người nhưng chính văn chương đã
xoá nhoà biên giới địa lí, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau.
- Khóc cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khóc cho người, khóc cho một
thiên tài kì nữ.
- Nguyễn Du coi mình là người cùng hội cùng thuyền với người xưa,
khóc cho Tiểu Thanh để rồi khóc cho chính mình.
- Bài ―Độc Tiểu Thanh kí‖ của Tố Như viết theo thể đường luật cô
đúc, hàm súc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, gợi
cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng.
b. Tiếng nói tri âm trong Kính Gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu
- Nếu “Độc Tiểu Thanh kí” là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành
cho một cá nhân, sự đồng cảm sâu sắc giữa hai người khác thời đại và dân tộc,
thì “Kính gửi cụ Nguyễn Du” là tiếng lòng tri âm của những con ngưòi cùng nguồn
cội, cùng dân tộc. Hai trăm năm sau Nguy?
Đề bài:
Bình luận quan niệm của
J.Paul. Sartre:
Tác phẩm văn học như con
quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần
phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng
nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen
trên giấy trắng.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Tác phẩm văn
học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Tác
phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình thai nghén của
nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như ―con quay kì lạ‖. Tác phẩm chỉ hiện
tồn ―trong vận động‖. Vận động là điều kiện thiết yếu để tác phẩm có thể xuất
hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.
- Muốn làm cho
nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học
chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn
là những vệt đen trên giấy trắng. Cơ chế cho sự vận động của văn bản
nghệ thuật là ―sự đọc‖. ―Sự đọc‖ có ý nghĩa sống còn đối với sức sống của tác
phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những ―vệt đen trên giấy
trắng‖ – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Nghĩa là coi văn bản được nhà văn
sáng tạo ra mới chỉ ở dạng ―tiềm năng‖. Sự đọc là máu để biến một thể xác vật
chất (văn bản) thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có trăn trở.
=> Ý kiến của
J.Paul.Sartre đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học. Ông quan niệm văn học là
hoạt động giao tiếp, là một quá trình. Từ đó đề cao vai trò của chủ thể tiếp
nhận là người đọc với đời sống văn học.
2. Bàn luận
- Quan niệm của Sartre
là hoàn toàn có lí.
- Dễ dàng nhận thấy dấu
ấn triết học hiện sinh trong nhận định này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong thế
giới ở hình thức cá thể, hiện thực với sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm
văn học là một sản phẩm tinh thần, được cụ thể bằng dạng vật chất (văn bản ngôn
từ), cũng chỉ có ý nghĩa trong đời sống của nó – sự đọc. Được viết ra từ những
ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc giả, nhân loại nói chung, tách khỏi sự
đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.
- Quá trình văn học được
tạo thành từ quá trình sáng tác (của nhà văn) và quá trình tiếp nhận (của người
đọc). Nó có tính liên tục, quan hệ chặt chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn
bản. Trung tâm của quá trình văn học là văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng
nghĩa với việc sáng tạo những tín hiệu thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã
(chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật). Đến lượt mình, độc giả
thực hiện việc giải mã.
- Ý đồ của nhà văn chỉ
là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm
lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác cho văn bản. Xét ở
góc độ này, văn bản có tính độc lập tương đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục
của ―con quay kì lạ‖ chính là những chỉ dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín
hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm.
- Đời sống của tác phẩm
không phải tính bằng thời gian nhà văn thai nghén ra nó. Có những sản phẩm nghệ
thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả.
Lại có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn
tiếp tục.
3. Chứng minh
Cần phải minh hoạ bằng
các tác phẩm văn học phù hợp để bàn trúng yêu cầu của đề. (Dưới đây là một vài
ví dụ gợi ý)
- Truyện Kiều của Nguyễn
Du khai sinh cách đây mấy nghìn năm vẫn còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao
cách cảm nhận và tranh luận khác nhau. Có thời, người ta đặt Truyện Kiều lên
bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị trí của tác phẩm.
Dùng quan điểm xã hội
học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận xét mà không căn cứ vào ngôn từ, mọi
nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế tắc. GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở
ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm mĩ đã rút ra những luận điểm chính
xác về Thi pháp Truyện Kiều, gợi mở cho chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ
của ―con quay kì lạ‖ chính là ngôn từ nghệ thuật.
- Tính độc lập tương đối
của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc có thể phát hiện những nét mới ngoài ý
đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm
2005, có một học sinh được điểm 10 khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ
dụng công trong xây dựng phẩm chất anh cu Tràng (sự hiếu thảo với bà cụ Tứ).
Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ đã kí gửi – văn bản có thể giải theo nhiều
cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ cảm phong phú.
- Sáng tạo văn học đồng
nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ thuật
người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục
quay này. Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ ―mặt chữ điền‖ (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc
Tử) có thể hiểu là khuôn mặt của người con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của
người con gái soi qua trái tim nhớ thương da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo
cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa là gắn với văn cảnh ―Lá trúc che
ngang mặt chữ điền‖ để thấy được nét đẹp của con người Vĩ Dạ và niềm hoài mong
đau đáu của Hàn Mạc Tử.
- Cặp hình tượng ―non –
nước‖ ở ―Thề non nước‖ của Tản Đà mang tính đa nghĩa: vừa là hai vật thể thiên
nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người con trai và người con gái nhớ thương
trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một
trạng thái cảm xúc chung.
4. Đánh giá
- Khẳng định ý nghĩa của
sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhà văn và quá trình sáng tạo. ―Con
quay kì lạ dẫu biến ảo, vận động về đâu cũng cần có một trục trụ duy nhất để
cân bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày
công xây dựng trong tác phẩm.
- Văn bản thì duy nhất
nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là bất tận. Tác phẩm có thể chỉ được
tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó là bất tử (đối với các kiệt tác).
Độc giả chính là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Quan niệm
hiện sinh của J.Paul.Sartre xét cho cùng đã đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm
văn học.
Đề bài:
Mọi tác phẩm dù được
sáng tạo theo một thi pháp nào cũng mở ra theo các
cách đọc. Mỗi cách đọc
mang đến cho tác phẩm một đời sống mới.
Anh chị hiểu ý kiến trên
như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ
văn THPT.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Tác phẩm văn
học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc một tập thể
sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người; biểu hiện tâm
tư, tình cảm, thái độ ...của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật.
- Thi pháp có
hai cách hiểu. Thứ nhất, đó là các nguyên tắc, biện pháp chung để làm cho một
văn bản trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Thứ hai, thi pháp là các nguyên tác,
biện pháp nghệ thuật cụ thể để tạo nên giá trị đặc sắc của một tác phẩm, tác
giả, trào lưu.
- Cách đọc: là cách tiếp
nhận văn học của người đọc, người đọc dùng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống và
cả tâm hồn của mình để chiếm lĩnh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm
văn chương.
=> Ý kiến khẳng định:
bất cứ tác phẩm nào cũng là tác phẩm mở cho các sự đọc, các người đọc khác
nhau. Tác phẩm sinh ra từ ý thức (tâm lý) người viết và sống
dậy trong tâm lý (ý thức) người đọc. Sức sống của tác phẩm nằm ở
trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.
2. Bình luận
- Ý kiến đúng đắn và xác
đáng
- Tác phẩm văn học là
một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên
người ta gọi tác phẩm văn học là một "văn bản mở". "Văn bản
mở" nghĩa là tác phẩm gồm hai phần: "phần cứng" là những con chữ
bề mặt văn bản đang nằm im, "phần mềm" là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa
được xuất hiện trong quá trình tiếp nhận. Từ xưa Phương Đông đã có mệnh
đề: Thi tại ngôn ngoại và văn hữu dư ba. Cái
phần ngôn ngoại và dư ba này không tồn tại
trên văn bản mà do ngữ cảnh tạo ra trong tưởng tượng và cảm xúc của người đọc.
Vì thế, cái gọi là "tác phẩm văn học" chỉ thực sự tồn tại khi nó biến
thành cái "phần mềm" kia, còn nếu không nó trở thành "quyển sách
chết".
- Ng-êi Trung Quèc x-a
cho r»ng t¸c phÈm tån t¹i trong lßng cña ng-êi tri kØ chø kh«ng trªn trang
giÊy; v× thÕ viÖc viÕt v¨n lµ viÖc cña tÊm lßng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ
thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó mà thôi. Người đọc là người cứu
tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa cuộc đời và
hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc. Tuỳ từng tư tưởng, kinh
nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác phẩm có muôn ngàn cuộc sống khác nhau.
Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là nó. Sự thú vị trong đa dạng tiếp nhận
cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng tạo. Vì thế sức sáng tạo của nhà
văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và thế là nghệ thuật có sự sống vĩnh
hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo hay là chết.
- Vai trò của người đọc
là rất quan trọng đối với sức sống của một tác phẩm song cho rằng phải có nó
mới có TPVH thì đó là một lập luận khiên cưỡng. Văn bản tác phẩm có thể tạo ra
các dị bản khác nhau trong tiếp nhận của người đọc song, đó là các dị
bản tiếp nhận từ một văn bản ổn định duy nhất là tác phẩm văn học. Cũng như
mọi giao tiếp ngôn ngữ, giao tiếp ngôn ngữ nghệ thuật qua tác phẩm văn học bao
gồm khâu phát ngôn của tác giả thành ra diễn ngôn của
tác phẩm rồi đi vào tiếp nhận diễn ngôn đó của độc giả. Đây là
quá trình tâm lý có sự đồng nhất, thống nhất mà cũng có sự sai biệt, mâu thuẫn.
Chính điều này tạo ra cái mà chúng ta gọi là sức sống của tác phẩm văn học
trong đời sống xã hội vô cùng phong phú, phức tạp, đa dạng giữa các nhà văn,
nhà thơ – các tác giả với công chúng người đọc, người phê bình văn học.
3. Chứng minh
Chọn một số tác phẩm
tiêu biểu, phù hợp phân tích để làm sáng tỏ ý kiến
(Đưới đây là một vài gợi
ý)
- Truyện Kiều của
Nguyễn Du
+ Nguyễn Công Trứ coi
Kiều là kẻ tà dâm, không đáng nhận sự thương xót.
Dưới cái nhìn khắt khe
của lễ giáo phong kiến ông viết:
Bạc mệnh chẳng lầm người
tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
+ Hoài Thanh: Truyện
Kiều là tiếng nói đau đớn, hiểu đời của một trái tim lớn.
+ Tố Hữu : Truyện
Kiều kết tinh của lời non nước, tiếng ru, tiếng thương có sức vọng đến
ngàn đời.
+…
- Bài thơ: Lặng
lẽ đêm của Y Phương:
Trên đầu ta
Trăng khe khẽ sáng
Sương khe khẽ lắng
Mây khe khẽ trôi
Dưới lưng ta
Chiều khe khẽ thở
Trong ngực ta
Khe khẽ NGƯỜI.
=> Khi đọc bài thơ,
có người đã dựa vào điệp từ ―khe khẽ‖ lặp lại năm lần để coi đó là nhãn tự, là
phép ẩn dụ về sức sống nhỏ nhoi, yếu ớt, thoi thóp của sự vật. Bài thơ vẽ nên
một bức tranh trăng, sơn mây. Đọc kĩ bài thơ nhiều người lại cho rằng, danh từ
―NGƯỜI‖ mới là nhã tự làm bừng sáng bài thơ, bởi với chữ người ấy ta nhận ra
một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm đến vô cùng để cảm nhận bức tranh đa chiều với vẻ
đẹp của trăng, sương, mây, sự vận động của sự vật lặng lẽ, khẽ khàng, nhưng
trong trái tim lại là sự sống tiềm ẩn mạnh mẽ.
- Đôn-ki-hô-tê: Người
Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến
chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa
hiện thực lại coi là biểu tượng của sự suy vi một thời phong kiến đã qua.
4. Đánh giá
- Sức sống của tác phẩm
văn chương không chỉ tạo nên bởi quá trình tiếp nhận mà con ở sức sống nội tại
của tác phẩm do người nghệ sĩ tạo ra.
- Người nghệ sĩ cần sáng
tạo nên những tác phẩm văn chương chân chính, một tác phẩm văn chương giống như
―tảng băng trôi‖ để tạo nên sức hấp dẫn, đánh thức niềm khát khao khám phá của
người đọc.
- Bạn đọc không nên suy
diễn tùy tiện, phải bắt nguồn từ văn bản. Phải thấy, khi đọc một văn bản văn
học, người đọc đã thực hiện một quá trình kép: vừa sáng tạo ra tác phẩm vừa
kiến tạo nên con người mình.
Đề bài:
Có ý kiến cho
rằng: Tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn
bộ tâm hồn mình để cảm nhận bức thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến người
đọc.
Anh/chị hãy làm sáng tỏ
ý kiến trên.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Văn học là tiếng nói
tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của nhà văn trước cuộc đời. - Nói đến tác phẩm văn
học là nói đến câu chuyện của tâm hồn (tình cảm, ước mong sâu kín của nhà văn
nhắn gửi với bức thông điệp thẩm mĩ), là điệu hồn tác giả đi tìm điệu hồn độc
giả. Vì vậy tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm
bằng toàn bộ tâm hồn mình để cảm nhận bức thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến
người đọc.
- Bức thông điệp thẩm
mĩ: Là tình cảm, tâm hồn, ước mong sâu kín của tác giả gửi đến người đọc thông
qua hình tượng nghệ thuật.
2. Bàn luận
- Ý kiến đúng đắn và xác
đáng.
- Xuất phát từ đặc trưng
của văn học. Bản chất của văn học là sự sáng tạo.
Người nghệ sĩ khai thác
cuộc sống, nhưng cuộc sống ấy đi vào mỗi trang văn, trang thơ lại mang một dấu
ấn riêng. Thơ văn là một thế giới thuộc về phần tâm hồn của người nghệ sĩ, nó
là những biến thái tinh vi của tình cảm, là khát khao hạnh phúc, là những ước
vọng lớn lao v.v…Văn học là sự phản ánh cuộc sống thông qua chủ thể nhà văn,
nhà thơ nên mỗi tác phẩm bao giờ cũng thể hiện tư tưởng tình cảm, gửi gắm những
thông điệp của tác giả…
- Tại sao tiếp nhận văn
học đòi hỏi người đọc phải sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình? Bởi chỉ
khi nhập vào thế giới hình tượng trong tác phẩm, chỉ khi để trái tim rung lên
theo những nhịp sống trong tác phẩm, ta mới cảm nhận được những buồn vui trăn
trở, khát vọng của nhà văn; mới thấy được những số phận, cảnh đời, mới hiểu
được giá trị thật sự của tác phẩm văn học đó.
3. Chứng minh
Chọn một số tác phẩm
tiêu biểu, phù hợp phân tích để làm sáng tỏ ý kiến
(Đưới đây là một vài gợi
ý)
- Truyện Kiều – Nguyễn
Du: Nhận ra số phận đau khổ của kiếp hồng nhan bạc mệnh; sự tác oai, tác quái
của xã hội đồng tiền đã vùi dập, chà đạp tình yêu, hạnh phúc, quyền sống và
nhân phẩm cao đẹp của con người. Nhận ra nỗi đau đứt ruột của nhà nhân đạo lớn,
tài năng kiệt xuấ của Đại thi dào dân tộc.
- Vội vàng – Xuân Diệu:
Có người nông nổi cho rằng bài thơ là lời giục giã cho cách sống hưởng thụ, gấp
gáp nhưng ta nhận thấy bức thông điệp thẩm mĩ Xuân
Diệu muốn gửi đến bạn đọc
là lòng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, là sự thức gọi mỗi người hãy sống
sao cho xứng đáng để không bao giời phải nuối tiếc, xót xa vì những ngày tháng
đã sống hoài, sống phí.
- Tống biệt hành – Thâm
Tâm: Có người cho Li Khách là người khổng lồ không tim, sắn sang coi người thân
như hư vô, nhỏ bé để mạnh bước trên đường thực hiện lí tưởng. Nhưng thực ra,
đằng sau dáng vẻ kiên quyết, dứt khoát của li khách ta nhận ra nỗi buồn thương
day dứt ―Ta biết người buồn chiều hôm trước…Ta biết người buồn sáng hôn nay‖.
Mặc dù thế, anh vẫn đi theo tiếng gọi của ―chí nhớn‖ . Để an ủi người ở lại,
anh mong mỏi người thân hãy coi mình như hạt bụi, như lá rơi, như hơi rượu tan
biến vào hư vô. Đó là vẻ đẹp thực sự của li khách - dáng vẻ của dũng khí và tâm
hồn nồng ấm rất con người.
- Bước vào trang văn của
nhà văn Mĩ Ô – hen – ri, mấy ai trong chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động
trước cảnh ngộ của cô họa sĩ trẻ Giôn – xi, phải từng ngày từng giờ bám lấy sự
sống bằng một tia hi vọng mong manh – ―chiếc lá cuối cùng‖. Nhưng bằng trái tim
giàu lòng yêu thương đồng loại, cụ Bơ –men đã hi sinh cuộc đời mình để cứu rỗi
một linh hồn đang dần lụi tàn trong một thân xác yếu ớt, tưởng chừng như không
giờ cứu chữa được. Kiệt tác cuối đời của cụ - ―chiếc lá cuối cùng‖ chính là bức
thông điệp màu xanh mà nhà văn Ô – hen – ri muốn đem đến cho bạn đọc: Hãy sống
và yêu thương, xã hội luôn cần tình yêu và lòng nhân đạo cao cả. Bởi tình yêu
thương sẽ cứu sống muôn triệu trái tim khổ đau bất hạnh trên cõi đời này.
- vv…
4. Đánh giá
- Đây là ý kiến sâu sắc
và đúng đắn cho người tiếp nhận để có thể cảm nhận được chiều sâu tư tưởng thẩm
mĩ của tác phẩm văn chương – hay nói cách khác là phần chìm của ―tảng băng
trôi‖ nghệ thuật.
- Bài học sáng tạo và
tiếp nhận: Nhà văn cần thấy vai trò và trách nhiệm khi sáng tạo văn học nghệ
thuật. Viết những tác phẩm bằng tâm huyết và tài năng của mình. Bạn đọc cần có
sư tri âṃ , đồng cảm với tác phẩm , với nhà thơ, nhà văn để có thể
sẻ chia những tinh cà ̉m đồng điêụ . Khi ấy, bạn đọc vừa cảm thụ được vẻ
đẹp của tác phẩm nghệ thuật, vừa kiến tạo nên con người mình.
Đề bài:
Mi-lan Kan-de-ra khẳng
đinh:
Khi đặt bút viết một tác
phẩm, nhà văn thường tìm hiểu và đặt ra rất nhiều câu hỏi. Chiều sâu của tác
phẩm thể hiện ở khả năng đặt ra câu hỏi về mọi vấn đề trong xã hội. Chính người
đọc sẽ tìm được câu trả lời chính xác theo cách riêng của mình.
Bằng tri thức và trải
nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Trong nhận định của
Mi-lan, kết quả về sự tìm hiểu thực tế của nhà văn là câu hỏi và chính điều này
tạo ra chiều sâu cho tác phẩm. Nó cho thấy tác giả phẩm văn học không phản ánh
hời hợt, dễ dãi ở bề mặt cuộc sống mà thực sự là những kiếm tìm, những trải
nghiệm, những suy tư về hiện thực.
- Trên cơ sở những câu
hỏi đó của nhà văn, người đọc sẽ tìm ra câu trả lời cuar riêng mình. Đó là cách
thức, là con đường mà tác phẩm đi vào trong đời sống, trong tiếp nhận của người
đọc.
=> Ý kiến đề cập đến
phương thức nhận thức hiện thực độc đáo của văn học – nhận thức thông qua việc
đặt câu hỏi. Chỉ ra sự tương tác của nhà văn, tác phẩm và người đọc. Nhà văn
không thay người đọc để đưa ra câu trả lời, nhà văn chỉ là người đặt câu hỏi và
người đọc sẽ hoàn tất câu trả lời. Đó là tinhs chất cơ bản của tiếp nhận văn
học.
2. Bình luận và chứng
minh
a. Tại sao việc đặt ra
câu hỏi lại quyết định chiều sâu của một tác phẩm văn
học khi nó phản ánh hiện
thực?
* Vì tìm hiểu thực tế
đời sống thực chất là một quá trình với nhiều chặng khác nhau:
- Ở chặng thứ nhất, nhà
văn thâm nhập thực tế và ghi nhận những sự kiện: Dẫn chứng: (Nam
Cao ghi nhận sự kiện người nông dân bị bần cùng hóa (Lão Hạc), họ bị bứt ra
khỏi làng xã quen thuộc, bị vứt vào những vùng đồn điền (con trai Lão Hạc), bởi
nếu không rời bỏ xã hội làng xã họ sẽ phải sống cô độc như Lão Hạc, phải mất
con, bán chó và chết thê thảm. Nam Cao còn ghi lại sự tha hóa của người nông
dân về nhân phẩm (Chí Phèo). Những sự kiện không phải ngẫu nhiên, đơn lẻ như:
chết vì miếng ăn, vì cái đói, sự lưu manh hóa trở đi trở lại trong các tác phẩm
của ông như một quy luật tàn nhẫn.)
- Ghi lại những sự kiện
đó, truy tìm nguyên nhân của những sự kiện đó.
+ Dẫn chứng 1: (Ở điểm kết thúc tác phẩm của Nam Cao đầy
ắp những câu hỏi. Có những câu hỏi trực tiếp: Thế lực nào đã đẻ ra Chí Phèo? Ai
cho tao lương thiện? Làm thế nào cho hết những vết sẹo trên gương mặt này? (Chí
Phèo). Có những câu hỏi gián tiếp toát ra từ toàn bộ thế giới hình tượng của
tác phẩm. Vì sao Chí lại đánh đổi mạng sống để làm người lương thiện? Vì sao
nhân vật của Nam Cao lại nhiều nước mắt đến thế…Những câu hỏi như thế dẫn chúng
ta vào tầng vỉa khác nhau của đời sống hiện thực. Đó chắc chắn là những câu hỏi
đã từng tra vấn nội tâm Nam Cao một cách căng thẳng. Chính những câu hỏi như
thế làm nên chiều sâu của tác phẩm.)
+ Dẫn chứng 2: Hành trình của Nguyễn Minh Châu viết về số
phận của người đàn bà hàng chài cũng đặt ra những câu hỏi tương tự; Vì sao
người đàn bà có thể chấp nhận một cuộc sống như thời trung cổ đến thế? Tại soa
cuộc sống đã hòa bình mà con người vẫn khổ như vậy? Người chồng vũ phu là đáng
giận hay đáng thương?
=> Rõ ràng những câu
hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp trong tác phẩm văn học là cách thức mà nhà văn
khoan sâu vào những tầng vỉa trong cuộc sống, là con đường để nhà văn nhận
thức, suy tư về bản chất của hiện thực. Những tác phẩm lớn, các câu hỏi đặt ra
không chỉ có ý nghĩa với đương thời mà còn có ý nghĩa với muôn đời, gắn với
nhiều thời đại, phổ quát cho cả loài người.
* Bằng cách nào nhà văn
có năng lực đạt ra những câu hỏi như thế? Nhà văn phải đi rất sâu vào hiện
thực, thậm chí phải đi qua những cảnh ngộ rất thơ mộng, đẹp đẽ như một tấm sưng
mù (Phùng – Chiếc thuyền ngoài xa , Nguyễn Minh Châu), hoặc là
phải trai qua một quá trình nhận thức (Ông giáo – Lão Hạc). Quan
trọng hơn, nhà văn phải có một tấm lòng luôn nhạy bén để thấu hiểu và cảm nhận
bi kịch của con người.
b. Tại sao việc người
đọc trả lời câu hỏi được nhà văn đặt ra trong tác phẩm
lại là điều quan trọng?
- Tác phẩm văn học là
một không gian không phải chỉ có tiếng nói duy nhất của tác giả. Tác phẩm văn
học là không gian đối thoại của tác giả với độc giả. Chính việc đưa ra những
câu trả lời khiến người đọc tham dự một cách tích cực vào tác phẩm. Để đưa ra
những câu trả lời thì người đọc cần đến kinh nghiệm sống, và vì thế người đọc đem
lại cho tác phẩm những ý nghĩa mới, nhờ đó tác phẩm không ngừng được bổ sung,
sáng tạo, được tiếp thêm sức sống. (Biện giải cho từng cách hiểu: Ai đẻ ra Chí
Phéo? Người đàn bà hàng chài đáng thương hay đáng trách?...)
- Ở mỗi thời đại khác
nhau người ta quan tâm đến những câu hỏi khác nhau? Với tác phẩm Chí Phèo của
Nam Cao, có thời kì người ta quan tâm đến câu hỏi: Ai cho tao lương thiện? Có
thời đại lại quan tâm đến câu hỏi: Làm thế nào cho mất đi những vết sẹo trên
gương mặt này?
- Những câu hỏi của tác
phẩm có trực tiếp và gián tiếp, câu hỏi trực tiếp là do nhà văn đưa ra, còn câu
hỏi gián tiếp là do phần lớn người đọc đặt ra và chính người đọc sẽ tìm câu trả
lời cho mình.
3. Đánh giá
- Trong nhận định của
mình, Ku-de-ra nói tác phẩm có thể đặt ra câu hỏi về mọi lĩnh vực trong cuộc
sống. Điều đó đúng nhưng có lẽ những câu hỏi có ý nghĩa nhất mà văn học đem đến
cho con người là những câu hỏi phản biện về những điều cồn tồn tại trong xã
hội, những câu hỏi tự vấn về chính mình…Nhờ những câu hỏi ấy
mà văn học có sức thanh
lọc, nâng đỡ tâm hồn con người.
- Bài học sáng tạo và
tiếp nhận…
Đề bài:
Đối thoại với văn chương, Cao Bá Quát nói: “Xưa
nay, nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì
bằng sự gặp gỡ”.
(Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2, tr 188 – NXB giáo dục năm 2008)
Phát biểu những suy nghĩ của mình về nhận định
trên. Phân tích một số tác phẩm mà ng-ời nghệ sĩ đã khổ vì “chữ tình” để đạt tới sự “gặp
gỡ” mà anh (chị) hiểu sâu
sắc nhất.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Bài viết của thí sinh
phải giải quyết tốt hai yêu cầu kiến thức cơ bản:
+ Yêu cầu thứ nhất là
trình bày suy nghĩ của mình về nhận định.
+ Yêu cầu thứ hai là làm
sáng tỏ nhận định ấy qua những tác phẩm người nghệ sĩ đã khổ vì ―chữ tình‖
để đạt tới sự ―gặp gỡ‖. 2. Với yêu cầu thứ nhất, cần làm
nổi rõ các ý sau:
- Nhận định trên nêu lên
một quy luật có tính chất phổ quát muôn đời. Trước hết cần hiểu rõ ―nỗi
khổ của người ta không gì bằng chữ tình‖. Chữ ―tình‖ ở
đây chính là tình cảm, cảm xúc đối với đồng loại, nhân dân, đất nước và cũng là
tình cảm của chính người nghệ sĩ mang thiên chức ―nhân đạo từ trong cốt
tuỷ‖ (nói như Sê – Khốp).
- Nỗi khổ không chỉ là
đơn giản là chuyện sướng khổ theo nghĩa thông thường trên đời mà ―khổ‖
chính là nhà văn bằng thiên chức của mình đã cảm thông sâu sắc đến tận cùng mọi
buồn vui sướng khổ của nhân loại nói chung, nhân dân mình, dân tộc mình nói
riêng. Họ có thể đau đớn, vật vã giằng co đến chảy máu trước cảnh ngộ thân phận
xót xa của người khác. Cũng có thể reo lên sung sướng trước niều vui dù là nhỏ
nhoi của con người.
- Như thế nỗi khổ lớn
nhất xưa nay của người nghệ sĩ hoá ra lại là chuyện cảm thông chia sẻ, tri ân
trước mọi cung bậc của tình cảm con người. Để nói lên được tất cả tình cảm ấy,
người nghệ sĩ phải sống với cuộc đời , sống với con người, phải mở lòng đón
nhận mọi vang động của cuộc đời. Và để có được sức cảm thông đó, người nghệ sĩ
phải dấn thân, phải tự nguyện, nói như nhà văn Lỗ Tấn thì đại ý: Tôi ăn lá ăn
cỏ để vắt ra là sữa nuôi người đạt được trình độ ấy thì nỗi khổ lớn nhất lại là
niềm hạnh phúc nhất.
- ―Cái khó ở trên
đời không gì bằng sự gặp gỡ. Thực chất đây là sự giao tiếp giữa tác giả
và người tiếp nhận, là mối quan hệ giữa người nói và người nghe, người viết và
người đọc, người bày tỏ và người chia sẻ cảm thông. Người viết baogiờ cũng mong
mỗi người đọc hiểu mình, cảm nhận được điều mình muốn gửi gắm kí thác. ―gặp
gỡ chính là sự đồng điệu hoà hợp của những tâm hồn. ở mức độ thống
nhất cao thì đó là đồng cảm xúc của người đọc.
Hiểu như vậy thì cái ―khó lại
là sự thành công sự tuyệt mĩ của tác phẩm. Tác phẩm chỉ thật sự có giá trị khi
được đông đảo bạn đọc đón nhận tìm thấy mình ở trong đó.
- Mối quan hệ giữa cái ―khổ và
cái ―khó của người nghệ sĩ chính là mối quan hệ giữa quá
trình người nghệ sĩ sống, chiêm nghiệm, hoá thân trong cuộc sống dài để phản
ánh chân thật những cảm xúc những suy tư, những trăn trở, niềm đau khổ vô cùng
và hạnh phúc vô cùng của con người và truyền thông cho được tình cảm ấy đến với
bạn đọc. Sự đón chờ, tiếp nhận hồ hởi của bạn đọc là tiêu chuẩn khắt khe nhất,
nghiêm túc nhất đối với sự trường cửu của tác phẩm văn chương. Người nghệ sĩ
nào làm được sứ mệnh ấy là nghệ sĩ lớn, tác phẩm nào đạt được sự hoà hợp ấy là
tác phẩm bất hủ không sợ thời gian.
2. Yêu cầu thứ
hai, cần làm tốt các ý sau:
- Khi làm sáng tỏ nhận
định phải cân nhắc lựa chon những tác phẩm thật sự có giá trị của những nghệ sĩ
thực sự vĩ đại hoặc uy tín.
- Khi phân tích cụ thể
phải chỉ ra được chỗ nhà văn ―lao tâm khổ tứ‖ cảm thông vô cùng
với tình cảm con người, nói hộ cho tâm sự nỗi niềm con người để sản phẩm tinh
thần của họ được bạn đọc đón nhận.
- ở góc độ tiếp nhận của
người đọc, cũng phải chỉ rõ được người đọc đã cảm thông, giao thoa đồng cảnh
ngộ với người nghệ sĩ sâu sắc ở điểm nào, những tình cản gì. Nói cách khác, sợi
tơ lòng kết dính người nghệ sĩ và bạn đọc là ở cách nhìn và tình cảm nào.
- Khi phân tích minh
hoạ, đề có phần nghiêng về tư tưởng tình cảm nhưng không vì thế mà xem nhẹ yếu
tố hình thức, nghệ thuật của tác phẩm. Phải xem nội dung tốt, hình thức lại
chuẩn mực thì đó là tác phẩm hoàn hảo.
- Phân tích minh hoạ
phải tuân theo một trình tự hợp lí, có thể mở rộng phạm vi tác phẩm minh hoạ
qua mọi thời đại, mọi quốc gia miễn là người viết nói đúng, nói trúng vấn đề
cần hiểu rõ và làm rõ.
Đề bài:
Phải chăng, tiếng nói
tri âm là khát vọng muôn đời của văn chương xưa nay?
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Vấn đề tiếng nói tri
âm trong văn chương.
a. Khái niệm
Tri âm được hiểu là sự
đồng điệu, thấu cảm. “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ
tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ.”( Hoa tiên truyện tự - Cao
Bá Quát).
b. Luận giải về tiếng
nói tri âm trong văn học.
- Sự tri âm giữa người
đọc và người viết trước hết được bắt nguồn từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật.
Người nghệ sĩ cầm bút là để giải bày lòng mình. Nhà thơ mang ―tiếng nói điệu
đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu‖. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn
thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một
mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc
cũng có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và
tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng
sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối
liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì
viết : “nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng
thấy tâm tình của chính mình”.
- Xét về đối tượng phản
ánh của văn học: Những cuộc đời bi kịch, đau thương, những số phận ngang trái
thường dễ khơi gợi cảm xúc đồng cảm xót thương của con người, nhất là những
người nghệ sĩ ( quy luật của cuộc sống: con người nhạy cảm, quan tâm nhiều hơn
trước nỗi buồn hơn là niềm vui, trước bất hạnh hơn là hạnh phúc, trước mất mát,
thiệt thòi hơn là được, may mắn). Tiểu Thanh, Nguyễn Du, Lorca đã đi vào trong
thơ của Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo bởi họ có chung số phận ấy.
Tri âm còn là tìm đến
cái đẹp để ngưỡng mộ, ngợi ca. Bản thân cái đẹp có sức chinh phục lớn lao với
những người nghệ sĩ. Cái đẹp có từ trong cuộc đời nhân cách của con người, cái
đẹp còn có trong giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Trong cảm xúc của các nhà thơ
sự cảm thông, xót thương phải đi liền với sự ngợi ca, ngưỡng mộ, tôn vinh. Qua
các tác phẩm thơ chúng ta thấy Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo luôn muốn lưu giữ
lại với muôn đời những vẻ đẹp mà đối tượng tri âm của họ sở hữu - Trên cơ sở lí
luận tiếp nhận văn học:
+ Khi nhà văn kết thúc
trang viết cuối cùng của tác phẩm, thì lúc đó tác phẩm mới bắt đầu vòng đời của
nó. Nói các khác quá trình hoạt động của tác phẩm không phải là một chu trình
đóng kín, mà nó mở ra về phía đời sống. Và đối với những tác phẩm lớn thì cuộc
đời của nó luôn luôn ẩn chứa những khả năng mới sẽ bộc lộ khi nó viễn du qua
không gian và thời gian. Và khi đó sức sống của tác phẩm văn chương sẽ được bất
tử hoá trong sợi dây tri âm linh diệu giữa tác giả và bạn đọc. Phải chăng vì
vậy, M.Gorki đã viết: ―người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định
số phận của tác phẩm lại là độc giả‖.
+ Tác phẩm văn chương
chỉ sống được trong tấc lòng của những người tri kỉ - là bạn đọc nhưng không
phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và thông điệp của tác giả. Tiếp nhận
văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tâm lý và tâm thế tiếp nhận, môi trường văn
hoá mà người đọc đang sống, đang tiếp thu, …. Chuyện khen hay chê trong văn
chương là điều dễ thấy. Cho nên, ở bất kỳ thời đại nào, bất cứ nền văn học dân
tộc nào cũng đều rất cần tiếng nói tri âm của bạn đọc dành cho tác giả. Nghĩa
là bạn đọc ấy phải cảm thông, sẻ chia với những nỗi niềm tâm sự , nghĩ suy của
người viết gửi gắm vào tác phẩm.
- Thực tiễn văn học:
Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển từng có lời bình Truyện
Kiều như sau: “Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm Truyện
Thuý Kiều, việc tuy có khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người
đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái
thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”. Chính
bởi ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương mà biết bao nhà thơ,
nhà văn đã sáng tác những tác phẩm mà đối tượng lại chính là các nhà văn, nhà
thơ. Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi tìm được tri âm là Tố
Hữu : ―Ở đây tôi thấy thơ tôi, Sống trong bản dịch tuyệt vời của anh”,
hay Thanh Thảo đã viết về Lor ca bằng những vần thơ với nỗi đau “bốc
cháy như mặt trời”. Trường hợp của Nguyễn Du và Tố Hữu trong hai bài
thơ ―Độc Tiểu Thanh kí‖ và ―Kính gửi cụ Nguyễn Du cũng không nằm ngoài mạch
nguồn cảm hứng giàu giá trị nhân văn ấy .
2. Tiếng nói tri âm
trong văn học qua một số tác phẩm tiêu biểu.
a. Tiếng nói tri âm
trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
- Hơn ai hết trong nền
văn học Việt Nam, Nguyễn Du là người khổ vì chữ tình và khát khao sự gặp gỡ đến
khắc khoải. Thi hào là một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen
bạc. Chắc hẳn đại thi hào sẽ ―ngậm cười chín suối‖ vì ―cả cuộc đời nay hiểu
Nguyễn Du‖, vì có biết bao người như Huy Cận, Tế Hanh, Chế Lan Viên, …và đặc
biệt là Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ người những uất hận kia. Bài
thơ ―Kính gửi cụ Nguyễn Du‖ ra đời như bắt nhịp cầu tri âm đến những tâm sự của
Tố Như trong ―Độc Tiểu Thanh kí‖, đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt
của tiếng nói tri âm trong văn chương.
- Trước hết ―Độc Tiểu
Thanh kí‖ là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân, một lòng
đau đi tìm một hồn đau, cất lên trong một không gian đa chiều của tiếng khóc –
tiếng khóc là biểu tượng cho sự đồng cảm sâu sắc giữa hai con người khác thời
đại và dân tộc. Có một khoảng không gian và thời gian diệu vợi, hun hút, ngăn
cách hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhoà biên giới địa lí, biên giới
lịch sử để họ tìm đến với nhau.
- Khóc cho Tiểu Thanh,
Nguyễn Du đã khóc cho người, khóc cho một thiên tài kì nữ.
- Nguyễn Du coi mình là
người cùng hội cùng thuyền với người xưa, khóc cho Tiểu Thanh để rồi khóc cho
chính mình.
- Bài ―Độc Tiểu Thanh
kí‖ của Tố Như viết theo thể đường luật cô đúc, hàm súc nhưng phảng phất giọng
điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, gợi cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng.
b. Tiếng nói tri âm
trong Kính Gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu
- Nếu “Độc Tiểu
Thanh kí” là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân, sự đồng cảm
sâu sắc giữa hai người khác thời đại và dân tộc, thì “Kính gửi cụ Nguyễn Du” là
tiếng lòng tri âm của những con ngưòi cùng nguồn cội, cùng dân tộc. Hai
trăm năm sau Nguyễn Du , Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc
hướng về quá khứ cha ông với niềm xót xa, thương cảm. Biết bao nhà thơ khác
đồng cảm với Nguyễn Du nhưng ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy thật sâu sắc, mênh mông.
- Nếu như Nguyễn Du chủ
yếu tri âm với cuộc đời Tiểu Thanh thì Tố Hữu còn tri âm với cả thế giới nhân
vật của tác phẩm Nguyễn Du. Tố Hữu không chỉ thương
Nguyễn Du mà còn thương
nhân vật mà Nguyễn Du thương.
- Không chỉ hiểu bi kịch
của Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ, cảm thông với bi kịch tình đời của thi hào.
Tố Hữu không chỉ tri âm với tư cách là một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ
mà còn tri âm trên tinh thần trân trọng truyền thống, di sản của cha ông. Hiện
thực thời đại mới cho phép tác giả đánh giá đầy đủ, sâu rộng và chính xác hơn
sự nghiệp sáng tác của một thiên tài. Như vậy, vấn đề tri âm còn là vấn đề thời
đại với thời đại, lịch sử với lịch sử.
- Tấm lòng tri âm của Tố
Hữu với Nguyễn Du không chỉ là sự đồng cảm, sẻ chia mà còn là sự trân
trọng, biết ơn, lòng cảm phục, ca ngợi. ("Tiếng thơ ai động
đất trời ... Tiếng thương như tiếng mẹ ru tháng ngày"). Tố Hữu đánh
giá rất cao giá trị sáng tác Nguyễn Du, đặc biệt nhà thơ đã khẳng định sự
trường tồn bất diệt của tác phẩm "Truyện Kiều" trong lịch sử văn học
dân tộc.
- Không chỉ thấu hiểu,
sẽ chia với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lý giải nỗi
đau của Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã
hội vạn ác thời nguyễn Du gây nên:
- Tố Hữu sử dụng thành
công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập Kiều, lẩy Kiều
để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng say mê.
c. Tiếng nói tri âm
trong Đàn ghi ta của Lor –ca (Thanh Thảo)
- Thanh Thảo từng tâm sự
rằng, ông rất ngưỡng mộ Lor-ca, rằng cuộc đời và sáng tác của người nghệ sĩ tài
năng này đã gây cho ông nhiều xúc cảm và ấn tượng.
Bài thơ “Đàn
ghita của Lor-ca” bày tỏ tấm lòng tri âm, ngưỡng vọng sâu sắc của
Than Thảo tới Lor-ca.
- Thanh Thảo tri âm sâu
sắc với nguyện ước của Lor-ca: “khi tôi chết hãy chon tôi với cây
đàn ‖. Khát vọng đó thể hiện một tình yêu Tổ quốc nồng nàn và cũng là
tình yêu nghệ thuật say đắm của Lor-ca.
- Thanh Thảo đã thấu
hiểu và ngưỡng vọng sâu sắc chân dung và bản lĩnh người - thơ của Lor-ca. Một
chiến sĩ yêu tự do và cái đẹp. Một nghệ sĩ du ca lãng tử, hào hoa có tâm hồn
phóng khoáng, khao khát cách tân nghệ thuật, khao khát chế độ dân chủ song Lor
ca rất cô đơn.
- Thanh Thảo bày tỏ nỗi
bi phẫn trước cái chết oan khuất của Lor ca. Dưới bút thơ tài hoa
của ông, tiếng đàn ghita đã vỡ ra thành hình, thành sắc để phục sinh cái chết
oan khuất của người nghệ sĩ thiên tài .
- Với tấc lòng xót
thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor-ca, Thanh Thảo khẳng đinh: Lor-ca là
một tâm hồn bất diệt, một nghệ sĩ chân chính. Nhân cách và tài năng nghệ thuật
của ông sẽ sống mãi với muôn đời. Nhà thơ cũng gửi tới người đọc một thông điệp
đầy tiến bộ: cái đẹp của nhân cách con người, cái đẹp của sự sáng tạo nghệ
thuật chân chính sẽ có sức sống bất diệt. Đây cũng là con đường mà Thanh Thảo
hằng theo đuổi.
- Với thơ tự do mang
phong cách tượng trưng - siêu thực, sáng tạo hình ảnh thơ theo lối lạ hoá, tài
hoa, xoá bỏ những liên từ trong thơ, bài thơ không dấu câu, khụng viết hoa đầu
mỗi dòng thơ tạo nên cấu trú ngữ pháp độc đáo, nhịp bất thường, những từ mô
phỏng âm thanh của các nốt ghi-ta ( li-la) được ―cấy‖ vào bài thơ một cách tự
nhiên… tất cả làm nên một kiệt tác.
3. Đánh giá
- Nhà văn sáng tạo không
chỉ vì độc giả của hiện tại mà nhà văn thiên tài còn phải đáp ứng được những
yêu cầu của mọi thời đại, mọi thế hệ. Nhà văn muốn tạo ra sự đồng cảm, tri âm
với độc giả thì tác phầm của họ phải nói được những vấn đề bức xúc của thời
đại, con người, những vấn đề mang tầm phổ quát; để rồi qua tác phẩm, người đọc
không chỉ hiểu tác phẩm, hiểu nhà văn, mà còn hiểu thời đại nhà văn đang sống.
Rộng hơn, độc giả còn so sánh được thời đại nhà văn sống và thời đại hiện tại
của chính mình. Thời đại nào cũng thế, những khao khát tri âm luôn là mong ước
cháy bỏng, mãnh liệt của con người.
- Muốn vậy, nhà văn cần
phải có một cái Tài, cái Tâm cao cả. Người nghệ sĩ luôn cần một tấm lòng sống
và yêu hết mình với cuộc đời, con người. Và người đọc hãy sống hết mình với tác
phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mĩ của tác giả, để chia sẻ, cảm thông với tác
giả và trở thành người ―đồng sáng tạo‖ với nhà thơ, nhà văn.
- Trong văn học nghệ
thuật, tìm được kẻ tri âm không phải là dễ. Liệu Bá Nha có được mấy Chung Tử
Kì? Thánh thơ Đỗ Phủ mà cũng phải trăn trở: “Bác niên ca tự khổ - Vị
kiến hữu tri âm” (Cả đời nói lên nỗi khổ của mình – Chưa từng thấy tri
âm). Như vậy tiếng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân
tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Chẳng vậy mà nhà văn Bùi Hiển cho rằng :
―Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là
trên hết‖.
Đề bài:
Nhà lý luận văn học
Trung Quốc Lưu Hiệp cho rằng: “Phàm việc làm văn thì nội tâm có bị xúc cảm
lời nói mới phát ra. Nhưng người xem văn thì (ngược lại): trước xem lời văn rồi
sau mới vào nội tâm tác giả. Nếu ta cứ theo sóng đi ngược lên tìm nguồn thì dù
văn có kín đáo cũng sáng rõ. Đời xa không ai thấy mặt nhà văn, nhưng xem văn
liền thấy tiếng lòng của họ”.
(Văn tâm điêu long/
thiên Tri âm; NXB Văn học; H; 1999; trang 274)
Anh chị hiểu ý kiến trên
như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học tiêu biểu.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích:
- Làm văn và xem
văn. Thực chất là hai quá trình quan trọng của đời sống văn học: quá
trình sáng tạo và tiếp nhận văn học. ở đó khái niệm ―văn‖ tức là tác phẩm văn
học là trung tâm. Làm văn là quá trình của người sáng tác, nhà văn. Xem văn là
quá trình tiếp nhận của người đọc.
- Người làm văn
thì xúc cảm lời nói mới phát ra: Nội dung của tác phẩm văn chương là nội
dung cảm xúc, nhất là thơ. Người làm thơ có xúc động, cảm xúc thì lời nói mới
phát ra. Văn bản văn học là sự thể hiện tình cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ
trên mặt giấy. Cảm xúc trong thơ phải mãnh liệt, tràn đầy. Rất nhiều người đề
cao vai trò của cảm xúc với việc làm văn. Thơ phát khởi phát từ lòng
người, Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần…
- Ngược lại,
người xem văn, trước xem ngôn ngữ, rồi hiểu người; rẽ sóng tìm nguồn để
thấy tiếng lòng của người làm văn. Quy trình của tiếp nhận: trước phải xem văn.
Nghĩa là phải xuất phát từ văn bản ngôn từ; ngôn ngữ là cái lớp rào cản đầu
tiên khi tiếp xúc văn bản văn học. Văn bản văn học gồm thế giới hình tượng và
các lớp nội dung ý nghĩa được ẩn tàng bên trong van bản ngôn từ. Không thể hiểu
văn nếu không giải mã văn bản ngôn từ. Đó là hệ thống kí hiệu được mã hóa để
chuyển tải thông điệp thẩm mĩ của người làm văn, nghệ sĩ ngôn từ. Xúc cảm trước
cuộc đời, trước số phận con người được nghệ sĩ thể hiện kín đáo trong trang
văn, sau văn. Nội dung cảm xúc của tác phẩm văn học ít khi phơi lộ trên bề mặt
của văn bản ngôn từ ngôn từ, mà thường được gửi gắm kín đáo đằng sau câu chữ.
Người xem văn phải biết rẽ sóng tìm nguồn, làm hành trình ngược dòng văn sẽ bắt
gặp tiếng lòng tác giả:
Đời xa không ai thấy mặt
nhà văn, nhưng xem văn liền thấy tiếng lòng của họ.
- Phải thấy có khi rẽ
sóng mà không thấy nguồn, không tìm được mặt thi nhân. Nhưng nếu thực sự rung
động, sống hết mình với tác phẩm, chắc chắn người xem văn sẽ bắt gặp phần nào
tiếng lòng của họ. Tri âm hoàn toàn là điều lí tưởng, là mong ước, nhưng khó
thay: “Bách niên ca tự khổ / Vị kiến hữu tri âm”. (Tự làm khổ
cả trăm năm vì thơ / Mà vẫn chưa thấy có người hiểu mình). Khó nhưng không phải
không có. Chuyện Bá Nha Tử Kì đâu chỉ là chuyện đời xưa. Đó là câu chuyện của
muôn đời về tri kỉ tri âm. Trần Phồn và điển chiếc giường cũng là nói chuyện
ấy. Mắt xanh cũng là điển chỉ sự thấu hiểu nhau của những người tri kỉ. Tố Hữu,
Huy Cận, Chế Lan Viên và cả dân tộc thấu hiểu nỗi lòng Nguyễn Du? Thanh Thảo
tri âm với nghệ sĩ cách ngàn trùng cây số? Những tấm lòng đồng cảm vượt không
gian và thời gian.
=> Ý kiến của Lưu
Hiệp thật đúng đắn và xác đáng khi bàn về quá trình sáng tạo của nhà văn và quá
trình tiếp nhận của người đọc.
2. Chứng minh
Chọn một số tác phẩm
tiêu biểu, phân tích để làm sáng tỏ hai vấn đề lời nhận định đề cập đến là làm
văn và xem văn:
+ Độc Tiểu Thanh kí –
Nguyễn Du
+ Đàn ghi ta của Lor ca
– Thanh Thảo
+ Chiếc thuyền ngoài xa
– Nguyễn Minh Châu
+… 3. Đánh giá
- Ý kiến đúng đắn, xác
đáng, thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà lí luận văn học
Lưu Hiệp.
- Tuy nhiên, phải thấy
cái gốc của văn chương là tình cảm, cảm xúc. Vì thế, để sáng tạo nên một tác
phẩm văn học chân chính, nhà văn phải có tầm vóc tư tưởng, tình cảm lớn.
- Trong quá trình tiếp
nhận, người đọc cần ―lấy hồn tôi để hiểu hồn người‖, có con ―mắt xanh‖ để tri
âm nhưng bên cạnh đó cần có trình độ thẩm thấu văn chương mới hiểu được hết giá
trị của văn chương.
Đề bài:
Hình tượng nhân vật được
sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người
đọc.
Bằng tri thức và trải
nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Nhân vật văn học là
khái niệm dung để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học –
cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của
nghệ thuật ngôn từ.
- Hình tượng
nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn: nhà văn là
người lao tâm khổ trí sáng tạo ra hình tượng nhân vật nhưng đó mới là hình
tượng bằng chất liệu ngôn ngữ.
- chỉ thực sự
sống bằng tâm trí của người đọc: người đọc mới là người biến hình
tượng nhân vật ở dạng ngôn ngữ thành sinh thể trong tâm trí của mình.
=> Câu nói nêu lên
vài trò của cả hai đối tượng là nhà văn và người đọc trong quá trình sáng tạo –
tiếp nhận văn học, nhưng trọng tâm là đề cao vai trò của người đọc trong việc
biến hình tượng từ những kí tự trên mặt giấy thành sinh thể tồn tại trong đời
sống tinh thần của con người, của xã hội.
2. Bàn luận
- Hình tượng nhân vật do
nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm chỉ là loại sản phẩm thuộc về tiềm năng.
Người đọc mới là người quyết định biến hình tượng nhân vật từ thế tiềm năng
trong ngôn ngữ, trên trang sách thành hình tượng sống động. Ví thế, hình tượng
nhân vật chỉ thực sự sống như một sinh thể trong tâm trí và bằng tâm trí người
đọc.
- Ý đồ của nhà văn chỉ
là một khả năng tồn tại của hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Mỗi người đọc,
bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả
năng khác, cách hiểu khác nhau, ý nghĩa khác nhau về hình tượng nhân vật.
3. Chứng minh
- Cần lựa chọn được một
số hình tượng nhân vật tiêu biểu trong các tác phẩm văn học để phân tích làm
sáng tỏ vai trò sáng tạo của nhà văn và giới hạn của hình tượng khi còn ở dạng
ngôn ngữ.
- Khẳng định người đọc
có vai trò tạo ra sự sống cho hình tượng nhân vật khi đọc tác phẩm. Phân tích
được những nhân tố dẫ đến vai trò quyết định của người đọc đối với sự sống của
hình tượng nhân vật.
- Gợi ý một số nhân vật:
+ Nhân vật Thúy Kiều –
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
+ Nhân vật Chí Phèo –
Nam Cao
+ Người vợ nhặt – Vợ
Nhặt của Kim Lân
+ Đường Tăng - Tây
du kí của Ngô Thừa Ân
+ Đôn ki hô tê…
4. Đánh giá
- Đây là nhận định đúng
đắn. Tuy nhiên không được coi thường những ý đồ tư tưởng của nhà văn. Trong đời
sống lí luận văn học, câu nói ―Tác giả đã chết‖ ý muốn đề cao vai trò của người
đọc, nhưng ―Tác giả muôn năm‖ vì tác giả là người sáng tạo ra hình tượng nhân
vật. Mặt khác, bản thân nhân vật cũng có sức sống nội tại của mình.
- Việc đồng sáng tạo với
nhà văn ở người độc không có nghĩa là bình tán, suy diễn tùy tiện, gượng ép mà
phải trên cơ sở hiểu được bản chất, quy luật sáng tạo nghệ thuật, xuất phát từ
văn bản tác phẩm, từ hình tượng nhân vật.
- Câu nói có ý nghĩa dẫn
dắt người đọc có thái độ tích cực trải nghiệm, tranh biện khi tiếp nhận tác
phẩm văn chương nghệ thuật.
Đề bài
Có ý kiến cho
rằng: Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt
đầu.
Anh (chị) hãy bình luận
ý kiến trên.
GỢI Ý ĐÁP ÁN
1. Giải thích
- Khi tác phẩm
kết thúc là khi tác giả đã hoàn thành tác phẩm cũng là khi người đọc
đã đọc xong tác phẩm.
- ấy là lúc cuộc
sống của nó mới thực sự bắt đầu nghĩa là, lúc bấy giờ tác phẩm mới
thực sự sống đời sống của nó trong tâm trí người đọc, tác phẩm mới thực sự nhập
vào đời sống thông qua người đọc.
=> Ý kiến đề cập đến
vấn đề tiếp nhận văn học. Nó đề cao vai trò của chủ thể tiếp nhận là người đọc.
2. Bình luận
- Tác phẩm văn học là
một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên
người ta gọi tác phẩm văn học là một "văn bản mở". "Văn bản
mở" nghĩa là tác phẩm gồm hai phần: "phần cứng" là những con chữ
bề mặt văn bản đang nằm im, "phần mềm" là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa
được xuất hiện trong quá trình tiếp nhận. Vì thế, cái gọi là "tác phẩm văn
học" chỉ thực sự tồn tại khi nó biến thành cái "phần mềm" kia,
còn nếu không nó trở thành "quyển sách". Mà rõ ràng, ý muốn của nhà
văn là truyền đến bạn đọc những lẽ sống của đời chứ không phải để bán sách.
- Ngay từ x-a, Heghen
trong Triết học tinh thần đã yêu cầu việc xem xét tác phẩm trong hệ thống
"tác giả — tác phẩm — người đọc" vì ông cho rằng sự tồn tại của tác
phẩm chỉ tồn tại trong ba yếu tố quan hệ hữu cơ với nhau ấy thôi. Còn người
Trung Quốc xưa, lại cho rằng tác phẩm tồn tại trong lòng của ng-ời tri kỉ chứ
không trên trang giấy; vì thế việc viết văn là việc của tấm lòng. Chính vì thế,
tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó mà thôi. Người đọc
là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa
cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc.Vì thế, mỗi tác
phẩm là một tiếng mời gọi tha thiết tấm lòng bạn đọc đến với mình, tri âm với
mình để mình có được một đời sống mới. Sức sống của tác phẩm không nằm ở lối ra
lệnh của nhà binh hay truyền giáo của tu sĩ mà nằm ở trường nhìn, trường cảm
của từng cá nhân đọc khác nhau.
- Tuỳ từng tư tưởng,
kinh nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác phẩm có muôn ngàn cuộc sống khác
nhau. Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là nó. Sự thú vị trong đa dạng tiếp
nhận cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng tạo. Vì thế sức sáng tạo của
nhà văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và thế là nghệ thuật có sự sống
vĩnh hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo hay là chết.
3. Chứng minh
Thí sinh cần phải minh
hoạ bằng các tác phẩm văn học mà mình nắm vững.
(Dưới đây là một vài ví
dụ gợi ý)
- Đôn-ki-hô-tê: Người
Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến
chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa
hiện thực lại coi là biểu tượng của sự suy vi một thời phong kiến đã qua. Vậy
rõ ràng, những môi trường văn hoá khác nhau tạo ra những "phạm trù
hiểu" không cùng hướng. Ta coi tác phẩm như cái đài nhiều dải tần, ai
thích nghe sóng nào thì nghe, nhưng phải bắt đúng dải sóng nếu không chỉ có tạp
âm thôi. Vì thế, sự "đúng — sai" trong tác phẩm là quy luật nội tại
tất yếu của văn học, nó chỉ thúc đẩy sự sống của tác phẩm trường tồn mà thôi.
Vậy thì lịch sử văn học, xét đến cùng, là lịch sử tiếp nhận văn học.
- Vãn cảnh của
Hồ Chí Minh. Chữ "lưỡng" là từ chìa khoá để khai mở bài thơ.
Xuân Diệu coi
"lưỡng" ở đây là hai sự vô tình khép kín một đời hoa, còn Trần Đình
Sử coi "lưỡng" là phó từ, còn chủ ngữ hàm ẩn"quyết định
nghĩa" bài thơ là người tù Hồ Chí Minh, tự trách mình vô tình. Thú vị nhất
là Nguyễn Khắc Phi khi đưa ra quan niệm "lưỡng vô tình" là sự trôi
chảy liên tục, bất biến của thời gian đã làm cho người tù bất bình.
- VV...
4. Đánh giá
- Khẳng định đây là một
ý kiến đúng đắn, súc tích, chứa đựng những ý tưởng sắc sảo với hình thức diễn
đạt gây ấn tượng. Nó đã chỉ ra được mối liên hệ thực tế giữa nghệ thuật và đời
sống, giữa sáng tạo và tiếp nhận. Nó đề cập được vấn đề cốt lõi của vòng đời
tác phẩm. Nó nhấn mạnh vai trò của người đọc tri âm và là người đồng sáng tạo,
người quyết định đến đời sống thực sự của tác phẩm nghệ thuật.
- Tuy nhiên , không thể
phủ định hoàn toàn rằng số phận tác phẩm nằm ngoài khả năng quyết định của tác
giả. Sự sống của tác phẩm, trước hết phải do chính nó và người làm ra nó quyết
định. Vấn đề được đặt ra với người cầm bút muốn viết lên những tác phẩm có giá
trị thực sự để phút mà tác phẩm kết thúc cũng chính là lúc sự sống của
nó bắt đầu (chứ không phải là cuộc sống) thì việc kết hợp giữa cái
tài và cái tâm là luôn luôn cần thiết. Như Nguyễn Du đã từng nói: Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Đề bài:
Anh/ chị bình luận ý kiến sau: “Mỗi tác phẩm
văn học là một cuộc xổ số mà số độc đắc luôn có trong lòng độc giả.”
Bài làm:
Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy
Câu thơ thuở nào của Chế Lan Viên như một chân
lý, nêu lên mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với cuộc đời. Tác phẩm văn học
là bức tranh toàn cảnh về cuộc sống. Nó xuất phát từ hiện thực và trở về với
hiện thực. Nó sống hay chết là phụ thuộc vào người đọc. Vì thế mới có ý kiến
cho rằng: “Mỗi tác phẩm văn học là một cuộc xổ số mà số độc đắc luôn có trong
lòng độc giả.”
Nói đến văn học là nói đến tấm gương phản
chiếu cuộc sống, là sự biểu hiện nội tâm. Tác phẩm văn học không chỉ là kết quả
sáng tạo của nhà văn mà còn là đối tượng của tiếp nhận văn học. Nhà văn là
người sáng tạo ra tác phẩm nhưng lại không có quyền định đoạt số phận cho nó.
Nó có thể chết khi nhà văn còn sống. Nó có thể sống khi nhà văn không còn nữa.
Có thể coi “một tác phẩm văn học như là một cuộc xổ số” là vì lẽ đó. Một tác
phẩm ra đời, thành công hay thất bại là do độc giả quyết định. Nói như Milan
Kundern rằng: “Khi đặt bút viết một tác phẩm, nhà văn thường tìm kiếm và đặt ra
rất nhiều câu hỏi. Chiều sâu của một tác phẩm thể hiện khả năng đặt ra nhiều
câu hỏi về những vấn đề cuộc sống. Chính người đọc sẽ tìm ra câu trả lời.”
Ý kiến trên đã đặt ra vấn đề về mối quan hệ
giữa tác phẩm với bạn đọc, giữa nhà văn với độc giả, nêu lên sức sống của một
tác phẩm văn chương.
Tác phẩm văn học như một “chứng minh thư” xác
nhận tư cách nhà văn, để xác định nhà văn trong lòng độc giả, trong lịch sử văn
học. Một tác phẩm chỉ thực sự lưu dấu trong trái tim và ký ức bạn đọc khi đó là
tác phẩm có giá trị. Mà tác phẩm có giá trị hay không thì câu trả lời nằm sẵn
trong lòng độc giả. Có biết bao văn sĩ đã biến mất khỏi ký ức nhân loại vì tác
phẩm của họ không phải là “số độc đắc”, chưa đủ in dấu với thời gian. Và cũng
có rất nhiều những tác phẩm, tác giả mãi mãi lưu danh với đời. Những cái tên
như Nguyễn Du, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân... hay Banzắc, Heminway... sống
mãi với thời gian.
“Tác phẩm văn học như một cuộc xổ số”, mà nhà
văn là người quay số - hồi hộp và lo lắng vô cùng. Để có được một tác phẩm văn
chương, nhà văn phải trải qua quá trình thai nghén, ấp ủ rồi lao động sáng tạo
vất vả, khổ cực và thậm chí là căng thẳng. Nguyễn Tuân cũng đã từng tâm sự
rằng: “Mỗi khi ngồi vào bàn giấy, tôi có cảm giác như đang đứng trước một pháp
trường trắng”. Một tác phẩm hoàn thành là biết bao công sức, mồ hôi, tâm huyết
của người nghệ sĩ. Cũng như bà mẹ chín tháng mười ngày đợi chờ đứa con sinh ra,
nhà văn cũng vui mừng khi tác phẩm – đứa con tinh thần của mình ra đời, sống
được trong lòng độc giả. Là con đẻ của nhà văn nhưng khi ra đời tác phẩm tồn
tại độc lập với nhà văn. Tác phẩm “sống” được hay không còn là điều băn khoăn,
là dấu hỏi lớn đối với các văn sĩ.
Câu hỏi về vấn đề sống còn của tác phẩm mãi là
điều bí ẩn, không lời đáp đối với tác giả nếu như không có bạn đọc. Chỉ có tiếp
nhận, khám phá, thấu hiểu được nó thì công chúng định đoạt, đón nhận nó. Trong
vô vàn tác phẩm đến với cuộc sống, mỗi người có thể và có quyền chọn ra một tác
phẩm ưng ý cho riêng mình. Cho nên “tác phẩm văn học là một cuộc xổ số” nhưng
điều thú vị ở đây là không phải chỉ có một “con số độc đắc” mà mỗi người đều có
thể chọn cho mình một con số riêng. Và cũng tùy cách tiếp nhận của mỗi người để
tác phẩm đó trở thành “số độc đắc” hay không. Thơ Hồ Xuân Hương có thể là đặc
sắc với người này nhưng cũng có thể là dung tục đối với người kia.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật độc
đáo. Xem tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghĩa là xem nó như một cơ thể sống
trọn vẹn có quá trình. Tính chỉnh thể ấy được thể hiện rõ trong quan hệ giữa
nhà văn, bạn đọc, hiện thực, tác phẩm... Nhà văn phải làm sao để tác phẩm của
mình là “con số độc đắc” trong lòng độc giả. Tác phẩm phải làm sao để tạo sự
hấp dẫn, lôi cuốn đối với người đọc. Tuy nhiên, tác phẩm không chỉ mang chức
năng giải trí như “cuộc xổ số” mà chức năng của văn học còn là nhận thức, giải
trí, giao tiếp, thẩm mỹ và... “nhân đạo hóa” con người. Chức năng chính của văn
học vẫn là tạo ra những rung động thẩm mỹ, hướng con người tới những điều tốt
đẹp hơn, “Văn học là nhân học.” (Măcxim Gorki)
Về phía người đọc, để đánh giá đúng giá trị
của một tác phẩm, người đọc cũng phải có một trình độ tiếp nhận nhất định. Sự
đồng cảm, rung động thật sự trước một tác phẩm là yếu tố đầu tiên để độc giả
chọn ra tác phẩm yêu thích cho riêng mình. Ngoài ra, bạn đọc cũng phải có một
vốn kiến thức cơ bản về văn học để đánh giá đúng giá trị của tác phẩm. Bởi lẽ,
người đọc có quyền chọn tác phẩm yêu thích, có quyền quyết định “số phận” của
tác phẩm.
“Mỗi tác phẩm văn học là một cuộc xổ số mà số
độc đắc luôn có trong lòng độc giả”. Mối quan hệ giữa tác phẩm – tác giả - độc
giả là mối quan hệ tác động qua lại. Tác giả dâng tặng công trình sáng tạo của
mình – tác phẩm – cho bạn đọc, hồi hộp và mong mỏi đứa con tinh thần ấy được
bạn đọc đón nhận. Tác phẩm được công chúng đánh giá cao thì nó sẽ cùng tác giả
bất tử với thời gian.
Ngô Lê Minh
Lớp 12 Văn, trường THPT Quốc Học Huế
Năm học 2004 - 2005