Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng
lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con
người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc Bản tuyên ngôn Độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
1. Bối cảnh lịch sử
và diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa
Đầu năm 1945, Chiến
tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp
giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước
và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít
Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng
quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít
Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo
thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh
và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân
Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc
Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần
tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi
chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải
qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày
9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó,
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào
cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền,
cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung
ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan
trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày
16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng
các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ
lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở
đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình
thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm
căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945,
Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy
lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu
toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt
cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông
Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung,
thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số
1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại
Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi
nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương,
tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành
tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi
nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền
Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội
An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội.
Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà
Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi
nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo
các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15
ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn,
chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại
Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng
bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày
Quốc khánh của nước ta.
2. Nguyên nhân thắng
lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ
do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là
sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn,
độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách
mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên
quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám
thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng
lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một
lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết
vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ
và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã
không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám
được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa
phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các
dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.
3. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng
lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền
về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn
hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam
từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của
mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc
lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.
Cách mạng Tháng Tám
là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ
thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa
Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất
yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí
quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện
với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ
nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện
trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi
mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một
nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con
đường của chủ nghĩa xã hội.
4. Một số bài học
kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là
có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư
tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch
sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh
phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực
lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần
chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là
vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng
cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần
chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra
thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính
quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất
và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên
quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc
để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn
đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời.
Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn
đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ
thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát
đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong
Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành
công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.